KỸ THUẬT INVERTER – Kỳ II : INVERTER HIỆN ĐẠI

TIÊU CHÍ KỸ THUẬT CỦA INVERTER HIỆN ĐẠI

Để tập trung chuyên môn, Wambuakim xin nêu các tiêu chí kỹ thuật cần quan tâm :

1/. Dạng điện áp và dòng AC phải là

–  Hình Sin thuần túy (pure sine wave),

–  Sin động (phù hợp với dòng diện hình Sin) hay Gần Sin (phù hợp tương đối với dòng diện hình Sin).

Kỹ thuật điện tử và linh kiện điện tử công suất hiện nay (thế kỷ XXI) cho phép thoát ly khỏi các hướng Inverter Giả Sin (dùng dạng xung vuông) hay Không Sin (dạng dòng và áp biến ứng / cảm ứng phức tạp). Vì chúng gây hại rất lớn cho các thiết bị sử dụng điện (đặc biệt cho phụ tải Cảm) + gây can nhiễu điện từ + có thể gây hại sinh học cho con người.

2/. Inverter cố gắng tuân thủ dạng dòng và áp hình Sin + tần số dòng điện AC + thăng giáng điện áp của nguồn điện AC sử dụng song song với nó (điện lưới nếu có) để có thể hòa pha, để đấu nối phối hợp với nguồn điện dùng Inverter khác ở gần hoặc (và) đấu nối với nguồn điện lưới  khi cần thiết.

3/. Inverter cần phải đủ an toàn điện (cách ly tốt, chống chập chạm cháy nổ, chống và ngăn ngừa chạm giật chết người v.v…).

4/. Giá trị sử dụng cao, bền chắc và an toàn nhưng giá thành Inverter phải đủ rẻ để phù hợp với thu nhập còn hạn chế của nhân dân VN và để dễ phổ biến rộng rãi cho nhân dân sử dụng, tăng cường ý thức tiết kiệm điện và dùng điện hợp lý.

—————————-

INVERTER LƯU ĐIỆN SINE WAVE 1 PHA

Dưới áp lực của một khả năng cung ứng điện còn yếu và đôi khi không hợp lý, việc cúp / cắt điện cục bộ (dù không quá lâu) là khó tránh khỏi. Do tỷ lệ cán cân năng lượng từ thủy điện > 40% làm cho các tải phụ thuộc chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, cắt điện luân phiên là việc thường xảy ra ở vài nơi. Các thiết bị cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt và làm việc như máy tính, đèn thắp sáng v.v… mất tác dụng tạm thời nhưng cũng gây rất nhiều trở ngại, ảnh hưởng đến đời sống và tâm – sinh lý – sinh hoạt.

Chúng ta thường nghe bàn râm ran về thiết bị cung cấp điện dự phòng. Trong đó không ít người nói đến máy phát điện chạy xăng, chạy dầu với độ ồn lớn, sử dụng phức tạp và ô nhiễm khói bụi, chi phí nhiên liệu ngày càng đắt đỏ. Một số khác quan tâm đến Inverter lưu điện trữ năng ắc quy với các ưu điểm không khó để nhận biết, là không ồn, không khói bụi, chi phí năng lượng (điện) và chi phí đầu tư thiết bị thấp.

Loạt bài nàycó mục tiêu hướng dẫn tiếp cận cơ sở lý thuyết đến thực tế lắp ráp chế tạo Inverter lưu điện từ thấp đến cao.

I/. Dòng điện.

Chúng ta bắt đầu với một ít kiến thức cơ bản về dòng điện một chiều (DC), dòng điện xoay chiều (AC) và dòng điện xung (PC).

1/. Dòng điện một chiều : Là dòng điện có chiều nhất định theo qui ước từ dương đến âm. Về nguyên tắc, nó có hiệu số điện thế không thay đồi trong điều kiện không tải. Trên đồ thị, dòng điện một chiều biểu diễn thành một đường thẳng song song với trục hoành độ. Tung độ của đường biểu diễn này biểu thị điện áp (hay cường độ) dòng điện một chiều.

2/. Dòng điện xoay chiều : Là dòng điện liên tục thay đổi chiều (giá trị điện áp đỉnh ổn định, thay đổi từ chiều âm sang chiều dương và ngược lại). Thời gian (tính bằng giây) của một chu trình thay đổi từ trị số điện áp 0 đến cực đại, xuống cực tiểu rồi về không gọi là chu kỳ. Số lần thay đổi đó (số chu kỳ) trong một giây gọi là tần số, có đơn vị là Hz (Hertz).

Trong đó dòng điện xoay chiều công nghiệp có dạng hình Sin 50 Hz (hay 60 Hz) với rất nhiều cấp điện áp là dòng điện đặc biệt phổ biến và hữu dụng hiện nay.

Trên dao động ký âm cực, dòng điện xoay chiều công nghiệp thể hiện thành một đường hình Sin đối xứng qua trục hoành độ với biên độ đỉnh dương và đỉnh âm đối xứng qua điểm biên độ bằng không (0).

Photograph of a sine wave on a grapgical oscilloscope display.

Điện áp (đo bằng Volt / V) của dòng điện xoay chiều hình Sin, thực chất là điện áp trung bình, có ý nghĩa như là điện áp một chiều có giá trị năng lượng (tích phân) tương đương với dòng điện hình Sin. Trong đó biên độ đỉnh diện áp xoay chiều hình Sin bằng căn 2 lần điện áp trung bình này (V = 1,414 U).

Ví dụ : Điện xoay chiều hình Sin 220V có điện áp đỉnh là :

V = 1,414 x 220 ~ 311V

3/. Dòng điện xung : Là dòng điện liên tục ngắt quãng, đảo chiều hoặc không đảo chiều, biên độ và tần số có thể ổn định hay không ổn định.

Dòng điện xung có qui luật biến đổi chiều với biên độ và tần số ổn định còn gọi là dòng điện “xoay chiều không Sin” hay dòng điện “xoay chiều xung”. Dòng điện xoay chiều xung ngày càng được dùng với rất nhiều ứng dụng và hiệu quả ngày càng phong phú.

Nhận xét :

a- Dòng điện một chiều có thể xem như là dòng điện xung biên dương có tần số vô tận.

b- Dòng điện một chiều cung cấp cho tải không ổn định (công suất thay đổi) làm cho nguồn một chiều thay đổi theo. Lúc đó nguồn một chiều này có mang yếu tố xung, có thể xem như là hỗn hợp của một dòng điện một chiều với một dòng điện xung.

c- Các yếu tố điện cảm và điện dung trong dòng điện xoay chiều hình Sin với dòng điện xoay chiều xung có tương quan Gaussian, trong đa số trường hợp là giống nhau (như cộng hưởng, hài, bộ lọc, biến áp v.v…).

d- Từ các nhận xét trên, ta thấy rằng nếu làm cho dòng điện một chiều dao động bằng một cách nào đó thì có thể dễ dàng tạo ra dòng điện xoay chiều. Đó là nguyên lý của Inverter.

e- Có thể diễn đạt một cách dễ hiểu là, có thể chế tạo Inverter với :

– Một mạch dao động điện tử để có điện áp xoay chiều hình Sin 50 Hz có công suất đủ lớn và hiệu suất đủ cao.

– Tạo ra dao động hình Sin 50 Hz rồi khuếch đại bằng Ampli đến biên độ (đỉnh hình Sin 311V) với công suất cần thiết cho nhu cầu sử dụng.

f- Như vậy, cốt lõi của vấn đề thiết kế chế tạo Inverter, là :

– Do phải tăng biến từ nguồn điện một chiều trữ năng (dùng ắc quy) nên đòi hỏi hiệu suất rất cao. Điều này còn rất cần thiết để linh kiện công suất chỉ dùng rất ít tản nhiệt.

Ví dụ : hiệu suất bộ khuếch đại 40% nghĩa là 60% năng lượng còn lại biến ra nhiệt. Muốn bảo vệ nhiệt cho linh kiện công suất của Inverter 400W (hiệu dụng) phải cần tản nhiệt khổng lồ cho 600W nhiệt năng tiêu tán (hic !).

– Hiệu suất khuếch được quyết định bởi lớp khuếch đại.

II/. Tạo tín hiệu hình Sin 50 Hz (hay 60 Hz).

1/. Tạo tín hiệu hình Sin 50 Hz hay 60 Hz dùng dao động phase shift oscillator (còn gọi là Bubba Oscillator) bằng 4 thuật toán đơn. Tín hiệu hình Sin Bubba thường không ổn định nên ngày càng ít được sử dụng.

2/. Tín hiệu hình Sin tạo bằng kỹ thuật R-2R.

3/. Dùng vi xử lý (Atm hay PIC), hoặc SOC hay PSOC để lập trình tín hiệu hình Sin. Đây là cách hiện đại, giản đơn và hiệu quả nhất, nên được ưu tiên khuyên dùng

Lập trình cho mạch Sine Wave :

; **************************************************************
; * Produces a sinewave on a R/2R-network connected to PORTD   *
; * (C)2005 by avr-asm-tutorial.net                            *
; **************************************************************
;
.INCLUDE "8515def.inc"
;
; Register definitions
;
.DEF rmp = R16 ; Multipurpose register
;
; Start of program source code
;
	ldi rmp,0xFF ; Set all pins of port D to be output
	out DDRD,rmp
	ldi ZH,HIGH(2*SineTable) ; Point Z to Table in flash
	ldi ZL,LOW(2*SineTable)
	clr rmp
loop1:
	nop
	nop
	nop
loop2:
	lpm ; Read from table
	out PORTD,R0 ; Write value to port D
	adiw ZL,1 ; point to next value
	dec rmp ; End of Table reached
	brne loop1
	ldi ZH,HIGH(2*SineTable) ; Point Z to Table in flash
	ldi ZL,LOW(2*SineTable)
	rjmp loop2
;
; End of source code
;
; Include sinewave table
;
.INCLUDE "sine8_25.txt"
;
; End of program
;
;
; Sinewave table for 8 bit D/A
; VCC=5.000V, uLow=0.000V, uHigh=2.500V
; (generated by sinewave.pas)
;
Sinetable:
.DB 64,65,67,68,70,72,73,75
.DB 76,78,79,81,82,84,85,87
.DB 88,90,91,92,94,95,97,98
.DB 99,100,102,103,104,105,107,108
.DB 109,110,111,112,113,114,115,116
.DB 117,118,118,119,120,121,121,122
.DB 123,123,124,124,125,125,126,126
.DB 126,127,127,127,127,127,127,127
.DB 128,127,127,127,127,127,127,127
.DB 126,126,126,125,125,124,124,123
.DB 123,122,121,121,120,119,118,118
.DB 117,116,115,114,113,112,111,110
.DB 109,108,107,105,104,103,102,100
.DB 99,98,97,95,94,92,91,90
.DB 88,87,85,84,82,81,79,78
.DB 76,75,73,72,70,68,67,65
.DB 64,62,61,59,58,56,54,53
.DB 51,50,48,47,45,44,42,41
.DB 39,38,36,35,34,32,31,30
.DB 28,27,26,25,23,22,21,20
.DB 19,18,17,15,14,13,13,12
.DB 11,10,9,8,8,7,6,5
.DB 5,4,4,3,3,2,2,2
.DB 1,1,1,0,0,0,0,0
.DB 0,0,0,0,0,0,1,1
.DB 1,2,2,2,3,3,4,4
.DB 5,5,6,7,8,8,9,10
.DB 11,12,13,13,14,15,17,18
.DB 19,20,21,22,23,25,26,27
.DB 28,30,31,32,34,35,36,38
.DB 39,41,42,44,45,47,48,50
.DB 51,53,54,56,58,59,61,62

4/. Điều biến số xung PNM tạo tín hiệu hình Sin (Pulse Number Modulation), do Wambuakim sáng tạo năm 2007.

Các chùm tín hiệu có số xung tương ứng với biên độ của hình Sin, trực tiếp đưa vào khuếch đại – sửa dạng để hoàn dạng hình Sin.

5/. Dùng IC Sine-PWM làm tín hiệu cơ sở cho khuếch đại PWM như TDS2285; HT1112; HT1212; HT1215; SG3525; SG3532-NE5532 v.v…

6/. Hỗn hợp : Điều biến PWM biên độ đa bậc, dùng đa bậc kết hợp R2R, dùng Counter kết hợp R2R, dùng PNM – đa bậc v.v…

III/. Các lớp khuếch đại công suất dùng trong Inverter.

1/- Khuếch đại lớp A : Toàn bộ tín hiệu hình Sin được khuếch đại đơn biên, phần xoay chiều được nâng áp bằng biến áp đến 220VAC đưa ra tải. Dòng không tải lớp A thường lớn, hiệu suất chung của Ampli lớp A từ 7% đến dưới 22% và chỉ còn được dùng trong giới chơi âm thanh “hi-End” và không thể dùng được trong Inverter.

2/- Khuếch đại lớp B : Tín hiệu hình Sin được tách thành hai biên âm và dương, sau đó đảo pha trở thành hai biên dương rồi khuếch đại riêng rẽ. Sau đó kết hợp để có dòng điện hình Sin rồi nâng áp với biến áp.

Hiệu suất của lớp B từ 18% đến dưới 40% nên cũng không thể dùng cho Inverter.

3/- Khuếch đại lớp C : Trong lớp C, năng lượng của một phần tín hiệu ngõ vào dùng để phân cực cho linh kiện công suất. Do đó ampli lớp C có dòng nghỉ gần bằng không, hiệu suất từ 38% đến 58%.

Lớp C dùng phổ biến trong một số Inverter công suất nhỏ, đặc biệt nguồn Flyback của TV, màn hình máy tính CRT.

4/- Khuếch đại lớp D : Nguyên tắc của lớp D là linh kiện công suất chạy kiểu tắt mở (Switch / On-Off). Vì vậy hiệu suất của lớp D rất cao và là lựa chọn duy nhất cho Inverter.

Inverter lớp D có thể dùng 3 cách sau :

a/.  Cách trực tiếp DC-AC.

-a1/ Tín hiệu xung vuông 50 Hz được khuếch đại tăng áp lớp D với biến áp xung. Ngõ ra được sửa dạng thành hình “gần Sin” với cuộn dây L và tụ điện C nên còn gọi là “mod Sin”. Cách này cho chất lượng dòng điện kém, hiệu suất chung chỉ từ 55% đến 65%, và thường chỉ nên dùng dưới 150VA.

Loại Inverter này chỉ dùng được đèn huỳnh quang, đèn compact, máy vi tính, TV LCD v.v… Nếu dùng cho phụ tải động cơ (như quạt máy, motor cỡ nhỏ v.v…) thường chạy yếu, kêu “ò ò” rồi … cháy.

-a2/ Chùm xung tương ứng với từng bán kỳ 50 Hz được khuếch đại và nâng áp bằng biến áp xung đến biên độ 265Vp (đỉnh). Điện áp ngõ ra biến áp được chỉnh lý bằng LC. Cách này có thể đạt hiệu suất 62% đến 70%, có thể dùng từ 150VA đến 500VA.

Cách này khá hơn hẳn loại (–a1) ở trên, ít hao bình hơn và quạt máy cũng …. lâu cháy hơn.

-a3/ Tín hiệu hình Sin được tạo ra rồi lượng tử hóa thành các mức năng lượng theo độ rộng của xung (còn gọi là điều biến độ rộng xung PWM). Khuếch đại công suất lớp D tăng áp trên biến áp xung cho ra điện áp cao và được giải điều biến lớp D để có điện áp ngõ ra 220VAC. Cách này có hiệu suất ~ 68% đến 75%, chất lượng dòng điện xoay chiều có khá hơn (-a1), ít hao bình hơn.

b/. Dùng giải thuật song song (Converter-Inverter) tiến hành với:

-b1/ Converter (Dc – DC): Điện áp accu (12V hay 24V hoặc cao hơn) được nâng áp với biến áp xung và nắn thành điện áp đơn (311VDC) hay điện áp đôi (+/- 311V) bằng khuếch đại lớp D. Hiệu suất phần converter quyết định hiệu suất chung và bắt buộc phải đạt trên 92%.

-b2/ Inverter (DC – AC): Tín hiệu ở 4-b được khuếch đại lớp D:

* Dùng H-Bridge với điện áp đơn. Mạch này dùng với công suất nhỏ và trung bình (dưới 3 KVA), dùng linh kiện công suất chủ yếu là MOSFET. Hiệu suất trung bình 70% đến 82%.

* Dùng nửa cầu với điện áp đôi cho công suất lớn (4 KVA đến vài chục KVA). Linh kiện chủ yếu là IGBT, GTO … Hiệu suất của lớp D theo phương pháp này đạt từ 80% đến 90%.

c/. Lớp D – đa bậc (còn gọi là lớp M, một biến thể của lớp D).

-c1/ Trong “lớp M” thuần túy, tín hiệu được phân thành các bậc, điều biến theo biên độ hình Sin. Sau khuếch đại lớp D, các bậc được kết nối cho ra dòng điện dạng hình Sin ban đầu một cách hoàn hảo.

Hiệu suất của lớp M đạt từ 85% đến 94%, ứng dụng nhiều cho các trạm năng lượng mặt trời, phong điện, điện sóng biển v.v… công suất từ 3 KVA đến 300 KVA.

-c2/ Để cải thiện chất lượng nguồn điện cho nhu cầu cấp điện thương phẩm, tăng hiệu suất và giảm khối lượng Inverter, một kiểu lớp M hỗn hợp (còn gọi là lớp H / Harmonia) phối hợp điều biến đa bậc với điều biến độ rộng xung. Do đó lớp H dễ dàng ổn định điện áp / công suất dòng điện ngõ ra, chất lượng nguồn điện cao hơn cả máy phát nhiệt điện – thủy điện. Dùng SCR, GTO, GCT, ETO hay MTO với hiệu suất từ 92% đến 99%, cấu tạo gọn nhẹ, lớp H có thể được ứng dụng từ 10 KVA đến 1500 KVA hay hơn nữa, hòa pha thẳng vào lưới điện.

Chú ý :

a/. Các hệ thống công suất lớn (từ 5 KVA đến 25 KVA trở lên đều dùng tổ hợp ắc quy có điện áp 336V (28 đơn vị accu 12V) nhằm loại bỏ tiêu hao của khâu Dc-DC.

b/. Khả năng của linh kiện công suất hiện nay :

– Thyristor có thể đến 11kV/5,6kA;
– GTO: 8,0kV/8,0kA.
– IGBT( HVIGBT):3,8kV/1,6kA.

———Còn tiếp———-

Thân ái.

Wambuakim

 

KỸ THUẬT INVERTER – Kỳ I : CHUYÊN ĐỀ INVERTER

I/. CÂU CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ INVERTER 

Inverter là vấn đề kỹ thuật rất sâu, vẫn được phát triển đa hướng, đa cấp độ từ những năm 60 của thế kỷ trước đến nay. Nhu cầu và năng lực chủ đạo là Inverter có thể tạo ra một dòng điện xoay chiều từ một nguồn một chiều có trước.

a/.  Cần có hệ cấp điện xoay chiều dự phòng cho thiết bị hoạt động đơn lập dùng điện xoay chiều.

b/. Cần nguồn điện một chiều đã được trữ năng (vì dụ trữ thế năng, trữ động năng, trữ nhiệt năng hay trữ bằng hóa năng v.v…) ra điện xoay chiều và cung cấp điện xoay chiều đó cho nhu cầu cao điểm hay sữ dụng trực tiếp ….

c/. Cần chuyển nguồn điện một chiều đang được sản xuất ra điện xoay chiều và cung cấp điện xoay chiều đó lên lưới (để sử dụng hoặc để bán điện).

Câu chuyện cũ : Năm 1972, một hạ sĩ quan Truyền tin quân đội VNCH / chế độ cũ tên là Phan Xây (quê Ninh Thuận bây giờ) mày mò với mớ linh kiện lấy từ máy truyền tin bán dẫn cũa Mỹ, thế nào tạo được một cái inverter bán dẫn. Nguồn đầu vào sử dụng cho  cái inverter này là Pin (của máy truyền tin PRC10) hoặc của ắc qui khởi động ô tô, và phát ra điện xoay chiều 110VAC. Anh tự hào đặt tên cho Inverter này là PX72 (Phan Xây năm 1972).

Phải nói là anh đã tạo ra một thứ phi thường lúc bấy giờ. Sự việc nhanh chóng đến tai người Mỹ (tham chiến ở VN) và anh bị rủ rê, mua chuộc thế nào đưa sang Mỹ, và từ đó biệt tung biệt tích đến bây giờ …

II/. CÁC CHỦNG LOẠI INVERTER

1/. Về kỹ thuật, Inverter có hai loại chính :

a/. Inverter cơ học :

– Inverter bộ rung : Dùng một bộ rung (Vibrator) với tiếp điểm hơp lý để đảo chiều cấp điện vào một biến áp 10/110. Khi cấp nguồn DC 12V vào hệ thì phần thứ cấp của biến áp sẽ phát ra điện xoay chiều 110VAC. Dòng điện AC tạo ra từ loại Inverter này là KHÔNG SIN, thường gây cháy hỏng các thiết bị tự cảm, và hiệu suất thâp.

– Inverter Motor – Dynamo : Dùng một Motor DC với tốc độ thích hợp kéo một Alternator (máy phát điện xoay chiều, ở VN hay gọi nhầm là Dynamo) để có nguồn điện xoay chiều 110VAC ngõ ra.

Nguồn điện AC mà Inverter Motor – Dynamo tạo ra rõ ràng là đáp ứng Sin động cho các thiết bị tự cảm rất tốt, nhưng hiệu suất của nó cũng thấp tệ hại.

hình Motor – Alternator

b/. Inverter điện tử :

–  Kể từ sau tiếng sét mang tên Phan Xây năm 1972, sau 1975, các kho thiết bị kỹ thuật quân sự cũ của Mỹ và quân đội chế độ cũ đã “tuồn” ra một lượng linh kiện điện tử rất lớn. Người ta bày bán đầy lề đường và dần dần tập trung về khu Nhật Tảo để hình thành chợ điện tử Nhật Tảo ngày nay. Linh kiện đặc biệt quan trọng dùng được cho Inverter ngày ấy là Transistor công suất mã hiệu 2N3055 của các máy truyền tin quân đội Mỹ, ampli TOA của Chến Tranh Chính Trị chế độ cũ (và một số ampli dân dụng).

–  Những “tay chơi” có trình độ ngày ấy săn lùng linh kiện, quấn biến áp điện từ, dùng linh kiện điện tử cũ ấy chế tạo Inverter “theo kiểu Phan Xây”, và thực tế là cũng phát huy được tác dụng trong một số nhu cầu.

– Về sau, một số “biến thể Phan Xây” dễ làm, dễ học hỏi và chế tạo, nhiều người có nhu cầu có tên MÁY KÍCH ĐIỆN (dùng để chích cá, để bắt heo bắt chó là chủ yếu, không quá nghiêm khác ngõ ra về điện áp và dạng hình Sin).

Máy chích cá góp phần tiêu diệt môi trường nên về sau hình như có lệnh cấm dùng nó nên lực lượng chế tạo máy chích cá bớt dần. Nhưng thực chất là do môi trường bị phá nát, tôm cá ít dần nên ít người dùng máy chích cá, thi thoảng có người dùng là để … chích chó.

– Sau thời bao cấp, VN mở cửa (1986), càng ngày thì linh kiện điện tử công suất lớn càng phong phú. Linh kiện công suất lớn ngày càng nhiều, nên các FET, MOSFET, IGBT v.v… thậm chí SCR, GateSCR … thế chỗ cho các transistor BJT, tạo ra các mẫu Inverter ngày càng tốt hơn, rẻ hơn và tăng tính hữu dụng.

2/. Về ứng dụng, có 4 loại Inverter :

Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến Inverter có điện xoay chiều ngõ ra hình Sin (và gần sin) mà thôi.

a/. Inverter lưu điện :

Với accu được nạp điện sẵn làm nguồn cấp cho Inverter, tạo ra điện 220VAC tương tự điện lưới để dùng khi bị cúp điện. Đây là Inverter sử dụng đơn lập điển hình. Dòng điện 220VAC của Inverter lưu điện có thể Sin hoặc không sin tùy theo nhu cầu của phụ tải mà nó phục vụ.

Thương thấy loại Inverter lưu điện là các UPS dùng cho máy tính, loại lớn là các bộ nguồn của BTS (trạm thu phát viễn thông) v.v…

b/. Inverter biến điện hình sin :

Có nguồn điện một chiều (lưu hoặc không lưu điện), Inverter biến điện có chức năng chuyển nguồn điện một chiều đó ra điện xoay chiều 220VAC có tần số 50 Hz tương tự điện lưới. Dạng dòng điện AC này là Sin hoặc gần Sin để không gây hư hỏng quá cho phụ tải mà nó phục vụ. Không thể đấu nối dòng điện của Inverter biến điện hình Sin vào điện lưới được, nó sẽ gây chập chạm, cháy nổ vì không cùng tần số và pha với điện lưới.

c/. Inverter biến điện hình Sin hòa pha :

Đây là Inverter tiêu chuẩn, dòng điện ngõ ra là hình Sin, cùng pha với điện lưới nên hòa pha được với lưới điện.

Những dự án bán điện lên lưới và dùng chung với điện lưới như Dụ án Điện Mặt Trời Áp Mái đều dùng loại Inverter hình Sin hòa pha này.

d/. Inverter lưu điện hình Sin hòa pha :

Đây là loại Inverter đậc biệt dùng cho hệ thống Solar Energy 24/7. Dòng điện 220VAC ngõ ra của Inverter lưu điện hình sin hòa pha thực hiện chính xác yêu cầu về điện áp, về tần số và về pha với nguồn điện song hành với nó (là điện lưới).

———-Còn tiếp———–

Thân ái.

Wambuakim

 

 

 

BIẾN ÁP HẠ ÁP XOAY CHIỀU ĐIỆN TỬ

Biến (hạ) áp điện tử  và ổn áp xoay chiều điện tử.

Xưa nay nói đến biến áp thì người ta nghĩ ngay đến “một cục” điện từ nặng nề, nặng khoảng 5 Kg / 1 KVA, kêu “rù rù” và tất nhiên là tổn hao điện năng lớn vì biến áp điện từ chỉ có hiệu suất 56% đến 65%.

Thiết bị gia dụng và công nghiệp gốc Âu Mỹ (và cả nội địa Nhật) thường tốt hơn hẳn sản phẩm tương tự của phần còn lại của thế giới nhưng dùng điện áp 100 VAC hay 120 VAC. Ví dụ nồi cơm điện (phần phát nhiệt vi ba), dàn âm thanh, khoan từ công nghiệp v.v… không thể sử dụng trong lưới điện VN, mà dùng kèm theo cái biến áp vài KVA, nặng hơn chục ký thì rõ ràng là nặng nề, kích rích và … hao điện.

Vì lý do đó mà Wambuakim nghĩ ra hạ áp xoay chiều điện tử, tầm nhìn kỹ thuật đến Ổn áp xoay chiều điện tử.

Biến áp hạ áp điện tử xoay chiều chỉ nặng vài trăm gam / KVA gói gọn được vào tay cắm / phích cắm điện là giải pháp cần thiết và vô cùng hợp lý trong trường hợp này. Lợi ích có lẽ không còn gì phải bàn cãi.

Thể theo yêu cầu của rất nhiều bạn quan tâm, Wambuakim cung cấp mạch điện dưới đây, chúng ta cùng thực hiện.

Sơ đồ lý thuyết mạch :

Dùng kỹ thuật SMPS với < 50% duty, chúng ta cho đầu ra công suất Mosfet hay IGBT chạy lớp D với tần số khoảng 10 KHz, ngõ ra LPF dùng LC. Hiệu suất đạt từ 92% đến 98%, với một chút ít thay đổi thì biến áp hạ áp điện tử này có thể điều khiển thang áp ngõ ra vô cấp, từ 10 VAC đến 200 VAC pure Sine Wave với điện áp đầu vào 220 VAC.

Phân tích mạch điện tử :

1/. Phần tạo xung PWM / điều tiết độ rộng xung dùng TL494.

2/. Ngõ ra của TL494 chia thành HS và LS. HS qua cách ly quang tốc độ cao: TLP250, TLP251, PC921, PC922, PC923 hoặc HCPL-315J, HCPL-316J vào thẳng base / HS BJT hoặc gate HS / Mosfet. LS vào thẳng base / LS BJT hoặc qua mạch gate driver vào gate LS / Mosfet.

3/. Hai biên âm và dương của dòng điện xoay chiều chạy riêng biệt và luân phiên với hai cặp HS – LS, được nối chung để hoàn nguyên điện áp hình Sin toàn kỳ.

4/. Ngõ ra tầng công suất qua LPF / LC xuất điện áp xoay chiều 110 VAC ra thiết bị hoặc vào ổ cắm riêng.

5/. Ổn định điện áp AC ngõ ra : Điện áp ngõ ra qua cầu điện trở + nắn, vào Opto P251 hồi tiếp về In-2 của TL494 điều chỉnh độ rộng xung để ổn áp ngõ ra.

Chúc các bạn thành công

5 / 12 / 2012

Wambuakim

Reup Oct 2020

CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT SỢI THUỶ TINH

Technology For Wire – Silicon Productive 

 

Bản giới thiệu công nghệ theo yêu cầu của Cty Hoàng Minh

 – Phan Đình Giót – Tân Bình – HCMC …

 

I/. Vài dòng về vật liệu sợi :

Vật liệu sợi là vật tư kỹ thuật có tầm quan trọng sống còn của nhân loại trong sản xuất và đời sống ….

Từ loại sợi thảo mộc, dây từ thân, vỏ, rễ phụ, xơ của các loại cây cỏ, dây leo, con người tiến đến dùng sợi sinh vật rất quan trọng là tơ tằm. Sợi kim loại và sợi đa phân tử (polimer) dần dần phong phú hơn và thế chỗ cho sợi sinh vật ngày càng hiếm và đắt đỏ.

Sợi thuỷ tinh ra đời, có độ bền chắc gấp từ 7 đến 16 lần sợi thép cùng kích cỡ, và sau đó là sợi Carbone với các tính năng ưu việt : cách điện, cách nhiệt, chịu hoá chất, chịu lực hàng trăm lần sắt thép … đã lên tiếng thách thức các loại vật liệu sợi khác trước nó.

 

II/. Sợi thuỷ tinh – cái nhìn từ Việt Nam :

*Thế giới thuỷ tinh thật là kỳ diệu.

– Nguyên tố chủ đạo của công nghiệp thuỷ tinh là Silic, chiếm một tỷ lệ lớn trong cát trắng. Sự tồn tại các phân tử chất lạ trong nguyên liệu sẽ làm cho thuỷ tinh có những màu sắc và tính chất rất khác, có lợi cũng như có hại. Để chủ động, nhà sản xuất phải lọc thuỷ tinh thành thuỷ tinh siêu sạch bằng ly tâm hay bằng cách nung nguyên liệu với chất hấp phụ là Creolite hay Diatomic, nói khác đi là làm giàu Silic trong nguyên liệu rồi mới phối các “nguyên tố lạ”.

– Thuỷ tinh siêu sạch được gọi là thạch anh, cho phép tất cả các bước sóng quang học đi qua, và là cơ sở chế tạo các linh kiện thiết bị quang học (máy chụp hình, kính viễn vọng v.v….) tốt nhất.

– Có chì (Pb) thì chiết suất thuỷ tinh tăng lên nhiều lần nên óng ánh và bắt sáng như kim cương và được gọi là pha – lê, thêm bạc (Ag) thì hiệu ứng phản xạ toàn phần được xác lập và dùng trong công nghệ cáp quang.

– Có mặt các phân tử oxyd sắt (FeO) và lưu huỳnh (S), thuỷ tinh sẽ dòn và dễ vỡ. Có Calci (Ca) thì tính dễ vỡ càng tăng lên, nhưng mảnh vỡ lại không có cạnh sắc, tạo ra được loại thuỷ tinh “hạt lựu” (loại thuỷ tinh này khi vỡ sẽ tan thành những mảnh nhỏ như hạt lựu, không sắc bén nên khó gây thương tích cho người dùng, được sử dụng làm kiếng chắn gió xe ô tô).

– Khi có mặt nhôm (Al) thì thuỷ tinh dẻo dai, chịu uốn cong, thêm Cobalt (Co) thì thuỷ tinh dễ dàng kéo sợi, sau đó là xe xoắn hay dệt, dùng làm cáp chịu lực, hay kết hợp với Kevlar làm áo giáp và khiên chống đạn.

– Có Germanium (Ge) thì thuỷ tinh (siêu sạch – tinh thể) lại xuất hiện tính năng dị kỳ : bán dẫn, và là cơ sở của chế tạo linh kiện bán dẫn của công nghiệp điện tử, cho đến vi mạch máy tính điện tử, đang là cái “đinh” của thời đại.

– Có Molipdenn (Mo) và Chrôme (Cr) thì thuỷ tinh ngăn chặn được tia tử ngoại, thêm Paladium thì chặn cả phóng xạ nguyên tử.

– Nấu thuỷ tinh trong Sud (NaOH) 34 Be ở nhiệt độ 127 độ C vài giờ thì thuỷ tinh thành thể lỏng (thuỷ tinh lỏng). Xử lý bằng hơi Fluoric Acid trong điều kiện siêu tĩnh (chống rung động trên bể thuỷ ngân) thì thuỷ tinh lỏng kết tinh thành tinh thể lỏng, là công cụ display hiện đại cho đồng hồ, máy tính … Một ít vi lượng Phosphor oxyd 2,3,4 và Chrome Oxyd 2,3, cho phép tinh thể lỏng đổi màu theo điều kiện điện áp và là cơ sở của màn hình màu tinh thể lỏng.

Nói thêmTrong sản xuất kính, người ta đổ thủy tinh nóng chảy lên bể thủy ngân. Do tỷ trọng thủy ngân rất lớn nên lực Archimeda đẩy thủy tinh “nổi” trên mặt bể thủy ngân, tạo độ đồng đều cao và bề mặt phẳng toàn hảo. Do đó gọi là “công nghệ kính nổi”.

 

*Nguyên liệu thuỷ tinh.

Những bãi cát trắng trải dài thành sa mạc ở VN ta và các mỏ thạch anh lộ thiên rải rác trên khắp miền đất nước là nguồn Silic, nguyên liệu thuỷ tinh giàu có và dồi dào với thành phần Silic Oxide rất cao đã là sự ao ước của nhiều nước có công nghiệp pha lê và thuỷ tinh mạnh như Nhật, Đức, Trung Hoa v.v… Nó còn là nguyên liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp siêu cao như công ngiệp bán dẫn, công nghiệp vi điện tử trên nền Silicon (Silicon – Semiconductor). Sau đây là một số nguồn nguyên liệu.

Nguồn cát (địa phương) Silic Oxide (%) Ghi chú
Hà Nam – Hòa Bình 94,07 Max 95,21 %
Nam Ô (Thừa Thiên – Huế) 92,45 Max 95,14 %
Hương An (Quảng Nam) 95,33 Max 96,72 %
Khánh Hoà 96,15 Max 97,05 %
Ninh Thuận – Bình Thuận 93,68 Max 95,12 %
Gia Bát (Bình Thuận – mỏ Thạch Anh) > 98 Max 99,15 %

Thế mà một trong những điều vô lý nhất đang diễn ra : Việt Nam và các nước Đông Nam Á hiện nay vẫn chưa làm ra được Ki – lô sợi thuỷ tinh nào, và cũng chưa hề mơ đến chế tạo con chip điện tử (IC đơn phiến) nền Silicon nào cả … (!)

 

*Sợi thuỷ tinh. 

Từ nguồn Silic, với xúc tác để làm giảm điểm nóng chảy và gia chất làm “dẻo”, người ta kéo thành sợi thuỷ tinh rất mảnh theo một công nghệ đặc thù. Mỗi sợi là một sợi thuỷ tinh vô định hình dài ngắn khác nhau.

Có thể xe các sợi này và dệt thành lưới sợi thuỷ tinh hay phối hợp với các loại sợi khác theo các mục tiêu và lợi ích khác nhau.

Nói một cách khác, sợi thuỷ tinh cũng chỉ là một loại sản phẩm thuỷ tinh, dù là có công nghệ sản xuất đặc thù.

Như nói ở trên, sợi thuỷ tinh rất bền chắc và có nhiều công dụng :

1/. Sợi thuỷ tinh dùng trong cách nhiệt cho các máy móc ngành nhiệt và ngành lạnh. Giới hạn nhiệt độ để dùng sợi thuỷ tinh là từ –133 độ C đến +1350 độ C.

2/. Sợi thuỷ tinh làm nền cho vật liệu Composite để sản phẩm Composite có độ bền cơ học cao hơn nhiều.

3/. Sợi thuỷ tinh kết hợp sợi thiên nhiên và tơ tằm trong cáp kéo và neo tàu biển chịu nước và chịu lực kéo hàng nhiều nghìn tấn.

4/. Sợi thuỷ tinh đơn tinh thể chiết suất cao dùng trong dẫn truyền dữ liệu cho máy tính và viễn thông hiện đại.

 

III/. Công nghệ sản xuất sợi thuỷ tinh :

1/. Sợi thuỷ tinh được chế tạo từ một nguồn nguyên liệu thuỷ tinh đủ sạch. Cùng với xúc tác để giảm nhiệt độ nóng chảy, tăng độ dẻo hay tăng chiết suất thành phẩm …, hỗn hợp được nung đến nhiệt độ tới hạn. Ở điểm nhiệt độ này, thuỷ tinh sẽ có độ dẻo cần thiết cho công nghệ kéo sợi.

2/. Thuỷ tinh nóng chảy được kéo sợi bằng phương pháp siêu thẩm thấu và hiệu ứng vi sợi qua mao dẫn. Công cụ kỹ thuật được dùng ở đây là máy ly tâm, nó loại trừ bọt khí trong sợi thuỷ tinh để chống gẫy đứt sản phẩm, sợi không quá ngắn.

3/. Sợi thuỷ tinh tạo ra sẽ làm nguội nhanh để tránh dính nhau, và được gom lại, trải và nén không gia nhiệt thành tấm, thành dải hay các dạng khác như xe sợi và dệt v.v… theo kích cỡ và nhu cầu thị trường.

4/. Quá trình sản xuất sợi thuỷ tinh có tốc độ rất cao và yêu cầu ổn định kỹ thuật khắt khe, nên nhu cầu tự động hoá cần phải thoả mãn ở mức cao nhất có thể được.

 

IV/. Đầu tư thiết bị và phương tiện của công nghệ WS2006:

Qui trình cần các thiết bị chủ yếu sau đây:

1/. Máy lọc/rửa lấy nguồn thuỷ tinh sạch để loại bớt nguyên nhân hoá học gây ra việc tạo thành bọt khí trong mẻ thuỷ tinh và làm hại đến tính chất của thành phẩm.

2/. Lò thuỷ tinh gia nhiệt hỗn hợp cho khâu kéo sợi thuỷ tinh.

3/. Máy ly tâm siêu thẩm thấu, là thiết bị công nghệ chủ đạo.

4/. Máy chuẩn độ, là thiết bị định chuẩn và kiểm báo chất lượng sản phẩm ngay trong quá trình sản xuất để phù hợp với các yêu cầu thiết lập ISO sau này.

5/. Bộ bảo ôn + cấp nhiệt cho toàn hệ thống với điều nhiệt tự động hay lập trình.

 

Chi tiết đầu tư cơ bản: (thời giá 10 / 2012)

 

T/tự Thiết bị Số lượng Giáđơn vị

(VNĐ)

Ưu tiên Ghi chú
1 Máy lọc/rửa 1 32.000.000 ** Có gia phí sd
2 Lò thuỷ tinh 1 35.000.000 ***
3 Máy ly tâm siêu thẩm thấu 1 55.000.000 *** Vs
4 Máy chuẩn độ 1 28.000.000 *
5 Bộ bảo ôn + cấp nhiệt 1 30.000.000 *
6 Khác // 100.000.000
7 Tổng số 280.000.000

 

V/. Kết luận:

Nước Việt từ ngàn xưa đã là món mồi ngon mà các đại bang thèm thuồng nhòm ngó. Một trong những lý do của sự nhòm ngó đó là tài nguyên khổng lồ còn chôn dấu nguyên sơ và đang được bán ra nước ngoài với giá còn rẻ hơn cả rác theo tư tưởng kinh tế vĩ mô mì ăn liền.

Cần phải lên án tệ nạn bán nguyên liệu thô với giá rẻ mạt như là tội danh bán nước. Vì sau nguồn thu ít ỏi là phải mua lại sản phẩm công nghiệp sản xuất từ chính nguyên liệu đó với giá … trên trời. Kinh tế toàn cầu và hội nhập WTO là một cơ hội và là một nhu cầu thúc bách để chúng ta mang tài nguyên đó làm ra sản phẩm công nghiệp để tăng giá trị xã hội, cải thiện nhanh GDP,  làm giàu cho nhân dân và cho chính mình.  

Công nghệ này xuất hiện và được xã hội hoá chính vì nhu cầu đó.

Trong nội dung khiêm tốn của một phác thảo giới thiệu công nghệ, chúng tôi hy vọng cung cấp được cho các bạn cái nhìn tổng quan để có hướng đầu tư tích cực.

 

Hốc Môn, TP. Hồ Chí Minh.

Ngày 12/06/2006.

Update 15 / 10 / 2012
tại CTy Vũ Lân
Cầu Bươu, Thanh Trì, Hà Nội

Wambuakim

NGOẠI BÌ HỌC PHẦN III (DA HỌC III, tiếp theo và hết)

NGOẠI BÌ HỌC III (DA HỌC III) 

(Tiếp theo phần II và hết)

6/. Nhóm bệnh ngoại bì do nội tiết – dinh dưỡng

 

6a/. Mụn, ghẻ, ung nhọt, mụn bọc (đinh râu).

 

– Mụn (mụn cám, mụn thịt hay mụn mủ) thường xuất hiện trên mặt thậm chí lưng, đùi … ở tuổi dậy thì, nhưng có những thể tạng mọc mụn ở tuổi rất muộn sau dậy thì. Nguyên nhân đến từ hoạt động nội tiết sinh dục và sinh lý có vấn đề. Mụn không nguy hiểm nhưng gây ngứa ngáy, khó chịu và làm mất mỹ quan, mất tự tin giao tiếp.

 

– Ghẻ và ghẻ lở, ung nhọt … thường xuất hiện ở tuổi thiếu niên – nhi đồng nhưng cũng không thiếu ở thanh niên và trung niên, người lớn tuổi. Nguyên nhân chính là do biến dưỡng, mất cân bằng dinh dưỡng và nội tiết.

 

– Đinh râu không chỉ là một bệnh đơn thuần của râu. Đinh râu khác với bệnh nấm tóc. nó là một bệnh thường xảy ra ở ngay chân của những sợi râu, ban đầu chỉ nhỏ như một cái đinh, nên cổ xưa gọi là đinh râu, tuy nhiên mỗi khi có bội nhiễm gia tăng nó có thể lớn bằng hạt bắp hay hạt đậu xanh, đặc biệt thì lớn như trái chanh. Đinh râu được gọi là nhọt độc, rất độc, vì khi nặn, bóp vỡ, bọc đinh râu sẽ gây bội nhiễm, trở thành nhiễm trùng máu rất nguy hiểm, thậm chí tử vong..

 

6b/. Acanthosis nigricans

Acanthosis nigricans thường kết hợp với điều kiện làm tăng mức insulin, chẳng hạn như bệnh tiểu đường loại 2 hoặc là thừa cân, thừa mỡ dười da. Nếu mức insulin quá cao, thêm insulin có thể kích hoạt hoạt động trong các tế bào da. Từ đó các phản ứng gây ngứa ngáy, nổi mẩn, phát ban giống như dị ứng da nhưng trị hoài không hết.

 

6c/. Ra mồ hôi và mùi hôi cơ thể :

Thay đổi bất thường trong mồ hôi – hoặc đổ mồ hôi quá nhiều (hyperhidrosis) hoặc đổ mồ hôi ít hoặc không có mồ hôi (anhidrosis) – có thể gây ra vấn đề trong thẩm mỹ, sinh hoạt, giao tiếp và làm việc. Triệu chứng thường xuất hiện ở các giai đoạn sinh trưởng và biến dưỡng đặc thù, dưới tác động của các kích thích tố sinh trưởng, các enzime từ các tuyến nội tiết (đặc biệt tuyến giáp, tuyến mật, tuyến thượng thận, tinh hoàn, vòi trứng và các tuyến nhầy âm đạo …) gây nên, thường là do bệnh lý nội tiết.

 

6d/. Nám mặt :

Nám mặt có thể diễn ra thành các điểm, các vệt, các đám da thẫm màu làm tổn hại mỹ quan nghiêm trọng. Nám mặt do nguyên nhân nội tiết, do nhiễm độc cơ thể, do mất cân bằng dinh dưỡng, do sang chấn tâm lý hoặc do một vài hay tất cả các nguyên nhân đó gây ra.

 

6e/.Hội chứng viêm da dày sừng :

Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân, có nguyên nhân dinh dưỡng thiếu và mất cân bằng dưỡng chất, khoáng chất và vitamin, ngoài ra còn có tác động phụ là do nhiễm vi nấm mốc trên thực phẩm (gạo thóc, rau củ), thiếu nước sạch ăn uống và sinh hoạt, do thiếu kém vệ sinh cá nhân. Bệnh có thể gây chết nhiều người và có thể lan thành dịch trong các vùng nông thôn, miền núi (Quảng Ngãi 2016 và 2017).

 

7/. Nhóm bệnh ngoại bì do di truyền – Gen

 

7a/. Bệnh á sừng:

Á sừng là trạng thái lớp sừng chuyển hóa dở dang, tế bào còn nhân và nguyên sinh, chưa chuyển hóa hết thành sừng. Lớp sừng chuyển hóa dở dang gọi là lớp sừng non, sừng bở, sừng tạp, kém chất lượng. Bệnh không nguy hại đến sức khỏe nhưng lại gây nhiều phiền toái cho sinh hoạt hàng ngày.là một bệnh viêm da thể tạng dị ứng, là một bệnh ngoài da khá phổ biến, có thể gặp ở nhiều vị trí da khác nhau, nhưng rõ rệt nhất là ở các đầu ngón tay, chân, gót chân. Lớp da ở những vị trí này thường khô ráp, róc da, nứt nẻ gây đau đớn.

Nguyên nhân gây á sừng đến nay vẫn chưa xác định, song nhiều nhà khoa học cho rằng đó là do yếu tố di truyền trong gia đình hoặc thói quen dinh dưỡng thiếu cân đối từ bé. Thực tế cho thấy, đại đa số bị mắc bệnh đều do ăn ít rau quả. Thiếu vitamin nhất là A, C, D, E… sẽ ảnh hưởng đến chất lượng lớp sừng.

Đây là bệnh viêm nhiễm mạn tính, khi cơ thể có sự thay đổi về nội tiết có thể tự khỏi như đến tuổi dậy thì, mang thai, mãn kinh…

 

7b/. Bệnh bạch biến

Bạch biến là bệnh rối loạn sắc tố dưới da có liên quan đến gen. Biểu hiện của bệnh là những đốm da bị mất sắc tố chuyển sang màu trắng hoặc đốm nâu xen kẽ, xuất hiện ở các vị trí trên cơ thể như cổ, lưng, mặt, vùng sinh dục,…

 

Hiện nay vẫn chưa có bất kì phương pháp nào có thể điều trị bệnh bạch biến, chỉ có thể dùng thuốc hạn chế tình trạng bạch biến lan rộng. Bệnh bạch biến không gây tổn thương gì, nên Tây Y khuyên người bệnh an tâm chung sống hòa bình với bạch biến.

 

7c/. EB – Ly thượng bì (bẩm sinh).

Bệnh ly thượng bì bỏng nước bẩm sinh (hay Epidermolysis Bullosa – EB) là một bệnh di truyền (di truyền lặn hoặc di truyền trội) hiếm gặp trên thế giới cũng như Việt Nam. Bản thân bệnh nhi bị ly thượng bì bỏng nước khi chào đời đã chứa trong mình một liên kết đặc biệt khiến lớp da trên cùng và những lớp da tiếp theo không dính nhau.

Việc chăm sóc trẻ bị bệnh này vô cùng vất vả vì khi bị bệnh, da các bé rất mỏng manh, trẻ có thể tự làm mình bị thương, thậm chí da bé cũng bị bong tróc, lở loét khi đóng bỉm hoặc được bế, bò hay đi. Chăm sóc bình thường sẽ dính, lột da ra vì thế phải dùng một loại gạc chống dính chuyên dụng để băng bó vết thương.

Một số bé bị nặng, tổn thương cả đường tiêu hóa, nên ăn uống rất khó, dinh dưỡng kém, cần được cung cấp thức ăn giàu năng lượng, ăn đồ dễ tiêu và lạnh, để giúp cải thiện sức khỏe, chống lại các nhiễm khuẩn kèm theo.

Với Tây Y, EB hiện chưa có khả năng chữa trị, những cách điều trị như ghép tủy xương hay điều trị gen mới chỉ đang trong quá trình nghiên cứu. Vì thế, trước mắt quan trọng là dùng những phương pháp chăm sóc đặc biệt để giảm thiểu đau đớn và biến chứng gây tàn phế ở trẻ.

Phương pháp điều trị chủ yếu hiện nay chỉ là hỗ trợ băng bó đúng cách, cung cấp đủ chất dinh dưỡng, tránh nhiễm trùng, tránh di chứng sẹo… mà thôi.

 

8/. Nhóm bệnh ngoại bì do nguyên nhân đặc biệt

 

8a/. Bệnh ngứa điên do prion và viroid : Đây là nguyên nhân gây bệnh nguy hiểm hơn cả AIDS nhưng Y học VN còn rất mù mờ và chưa có nhận thức rõ ràng về nó.

 

– Prion viết tắt từ infection protein – có nghĩa là protein bị nhiễm độc hay bị đột biến là những tác nhân lây nhiễm nhỏ bé nhất mà y học từng biết đến, chúng nhỏ hơn virut tới 100 lần. Chúng không phải là các virut hay vi khuẩn mà là một cấu trúc vi sinh vật kiểu mới có dạng các protein đột biến. Bản chất của prion chưa được chứng minh một cách chắc chắn, là một hiện tượng mới vượt ra ngoài hiểu biết thông thường.

 

– Viroid là những phân tử RNA rất nhỏ (200-400 nucleotide), dạng que có mức độ cấu trúc bậc hai cao. Chúng không có capsid và vỏ bao (envelope) và chỉ chứa một phân tử acid nucleic đơn.

 

Đầu tiên, chúng tạo ra các cơn ngứa điên cuồng, bực bội vô cớ và rối loạn giấc ngủ.

Thời gian ngắn sau đó, cùng với mức độ tổn thương ngày càng trầm trọng của não, tình trạng bệnh lý ngày càng tồi tệ, người bệnh mất trí nhớ, đi lại khó khăn rồi liệt hoàn toàn.

Cuối cùng hệ miễn dịch suy sụp nhanh chóng,đàn ông và phụ nữ sẽ bị chứng vô sinh cùng với bị phá hoại nhiều cơ quan nội tạng khác như gan, thận, tim và nhất là não.

Trong tất cả các trường hợp này, kết cục cuối cùng sẽ là cái chết.

 

8b/. Polyp da: Xuất hiện hình thái tương tự như một vết bỏng nhưng đặc, dai hơn, polyp da sống chung hòa bình với con người khi kích thước của nó D < 10 mm. Tuy nhiên nếu kích thước của nó đủ lớn (hoặc bị tấn công cơ học mạnh như nạo, xén, cắt bị bỏ sót v.v…) thì polyp lập tức chuyển biến thành ung thư (ác tính) trong thời gian khá ngắn.

Tuy nhiên, một điều may mắn là combo capsaicin dễ dàng làm tiêu polyp da trong thời gian không lâu.

 

8c/. Ung thư da : Ung thư da gồm có hai loại: Melanoma và không melanoma. Melanoma là trường hợp nguy hiểm nhất nhưng cũng là trường hợp ít gặp nhất trong ung thư da. Ung thư da không melanoma chủ yếu có hai loại thường gặp là carcinoma tế bào đáy và carcinoma tế bào vảy. Ung thư da là loại ung thư thường gặp nhất, nhiều hơn tất cả các loại ung thư khác cộng lại.

Có thể làm giảm nguy cơ ung thư da bằng cách hạn chế hoặc tránh tiếp xúc với bức xạ tia cực tím (UV). Kiểm tra da cho những thay đổi đáng ngờ có thể giúp phát hiện ung thư da ở giai đoạn sớm nhất.

 

8d/. Ung thư tế bào vảy (SCC)

Ung thư tế bào vảy hiếm khi gây ra vấn đề, an toàn hơn nữa nếu được chẩn đoán và điều trị sớm. Nếu không điều trị, ung thư biểu mô tế bào vảy có thể phát triển lớn, lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể, gây biến chứng nghiêm trọng.

 

8d/. Xơ cứng bì

Xơ cứng bì là một nhóm hiếm, bệnh tiến triển có liên quan đến việc làm cứng và thắt chặt của da và mô liên kết – các sợi cung cấp khuôn và hỗ trợ cho cơ thể.

 

9/. Các tổ hợp bệnh ngoài da

Các bệnh ngoài da thường diễn tiến với các tổ hợp của vài loại bệnh da cùng lúc (xem C/ I), thường là có cả nguyên phát hay bội nhiễm và được gọi là combo bệnh lý. Ví dụ vẩy nến – Prion, á sừng – Viroic, hay Eczema – nấm da, vẩy nến – á sừng v.v… Việc chỉ định bệnh kiểu “một chiều” sẽ làm cho việc chữa trị (theo kiểu trị triệu chứng) diễn ra dằng dai không bao giờ dứt, gây tổn hại nội tạng (gan, thận, mật …) và các tuyến nội tiết, gây sưng, xơ cứng và thoái hóa khớp v.v… rất nguy hiểm và để lại nhiều di chứng.

 

III/. Lưu ý khi chữa trị các bệnh ngoài da

 

Các bệnh ngoài da xuất hiện ngày càng nhiều và rất phổ biến. Mỗi người đều có thể đứng trước nguy cơ mắc phải các loại bệnh này, vì thế cần có biện pháp phòng chống hiệu quả. Khi mắc bệnh cần được khám và điều trị kịp thời. Với mỗi loại bệnh khác nhau sẽ sử dụng các loại thuốc phù hợp để điều trị. Bên cạnh đó, người bệnh cần kết hợp thực hiện các biện pháp hỗ trợ điều trị. Đối với tất cả các loại bệnh ngoài da khi chữa trị cần tuân thủ theo các yêu cầu sau:

– Vệ sinh sạch sẽ cho da mỗi ngày để loại vỏ vi khuẩn, nấm, virut gây bệnh

– Không gãi hay tác động mạnh lên vùng da bị tổn thương để tránh gây viêm nhiễm, thương tổn nặng thêm

– Mặc quần áo thoáng mát, tránh gò bó gây cảm giác khó chịu và tổn thương cho da bị bệnh.

– Xác định đúng nguyên nhân gây bệnh, từ đó xây dựng phác đồ điệu trị hiện quả và chính xác.

– Kiên trì và nghiêm túc theo đúng dược trình, không bỏ dở nửa chừng, không nản chí, giữ tinh thần thoải mái lạc quan.

– Kết hợp chữa trị bằng dược pháp với thể dục thể thao nhẹ nếu có thể được.

– Thực hiện chế độ ăn uống hợp lý gồm tăng cường bổ sung các thực phẩm chứa nhiều vitamin như rau quả tươi để tăng sức đề kháng và thanh nhiệt cơ thể. Đồng thời tránh ăn các loại đồ ăn cay nóng, uống quá nhiều rượu bia và các chất kích thích, có thể khiến cho tình trạng bệnh xấu đi.

 

       C/. Dược phương trị bệnh ngoài da Wambuakim

 

I/. Nhận định :

 

Các bệnh ngoài da thường không đi riêng lẻ, mà các loại bệnh như Lupus ban đỏ, vảy nến, chàm Ezema, ban siêu vi, dị ứng phát ban.v.v… thường đi chung với nhau.

 

Theo luận chứng Y Dược Học Lượng Tử thì bệnh da thường xuyên tác hại như là một synthetic bệnh học.

 

Nghĩa là nếu chữa theo trịệu chúng, khi hết “cái này” (bệnh chứng cụ thể) thì “cái kia” (bệnh chứng cụ thể có liên quan) lại nổi lên, liên miên dây dưa không dứt. Do đó mà Đông – Tây Y gần như bó tay với các bệnh ngoài da thể nặng.

 

Phương pháp luận trị liệu của WambuakimDiệt Nguyên Nhân Gây Bệnh, nên phải xác định rõ các bệnh căn này rồi dựng nên dược trình hữu hiệu nhất với bệnh căn ấy (trong đó viêm cầu thận, thậm chí suy thận chỉ là triệu chứng của bệnh căn này).

 

Ví dụ để hiểu rõ hơn, một cơn mưa hàng vạn mét khối nước cũng không làm đầy được chai nước, nhưng chỉ một ca nước ĐỔ ĐÚNG CHỖ lại làm được.

 

II/. Tổng quan :

 

Dược phương trị liệu các bệnh về da của VNBLOOD bao gồm :

 

Dược trình 1/.Giải độc cơ thể, giải độc tế bào, tích cực giảm mỡ máu, mỡ nội tạng (gan, thận, mật, tụy tạng …), mỡ dưới da nếu cần. Cường kích hệ đề kháng + hệ phản vệ.

 

Dược trình 2/. Ưu tiên diệt Prion và viroid + chống dị ứng. Kích khởi hệ thích nghi và hệ đồng hóa – dị hóa vào mục tiêu cụ thể. Phương thức dược học chính là  thoát ly hệ miễn dịch :

 

a/. Đánh dấu ngoại bào xâm thực.

 

b/. Dẫn dắt hệ đề kháng và hệ phản vệ tiêu diệt tác nhân ngoại lai.

 

c/. Đánh thức bán hệ dị hóa để tống độc tố và tác nhân ngoại lai ra các đường đào thải tiêu hóa, tiết niệu và bài tiết.

 

Dược trình 3/. Sử dụng combo phục hồi sửa chữa làn da trong suốt quá trình trị liệu. Trong đó combo fucid tác dụng đến lớp da thứ 3, combo capsaicin tác dụng đến các tầng da sâu hơn để có hiệu quả phục hồi da cao nhất.

Các combo DHA, Lactobacillus Enzime tích cực bổ sung và cân bằng dinh dưỡng, thúc đẩy tái tạo da.

 

Dược trình 4/.Sau khi có kết quả ổn định thì củng cố hoạt động tự vệ của cơ thể, phục hồi các hệ tự vệ đã đường cường hóa quay trở về mức độ trung bình vốn có. Dùng các bài thuốc “nhắc” để bảo đảm không tái phát.

 

Về lý tưởng thì chỉ 4 dược trình, nhưng có thể một trong 4 hoặc tất cả các dược trình phải lập lại cho đến khi đạt yêu cầu trị liệu mới sử dụng dược trình tiếp theo. Thời hiệu thông thường của mỗi dược trình là 16 ngày đến 1 tháng.

 

06 / 6 / 2016

Wambuakim

 

TẨY RỬA DẦU MỠ VÀ GỈ CHO NGÀNH MẠ VÀ SƠN PHỦ / TRÁNG

SỢ LƯỢC VỀ YÊU CẦU BỀ MẶT

CỦA NGÀNH MẠ + SƠN PHỦ + TRÁNG KIM LOẠI.

– Mạ điện dùng phản ứng điện di hay điện hóa Faraday, kết tủa kim loại cần mạ lên bề mặt vật mạ (gọi là Obj). Khi bề mặt vật mạ không được tẩy sạch dầu mỡ (do quá trình gia công cơ khí để lại) và gỉ (do lưu kho, xâm thực hóa học, độ ẩm, nước mưa v.v… trước khi mạ) thì phản ứng điện di / điện hóa diễn ra không hoàn toàn. Lực liên kết bề mặt kém nên lớp mạ chóng bị bong tróc, thậm chí bong tróc ngay trong quá trình mạ.

– Sơn phủ / tráng dùng liên kết cơ lý, tạo một lớp màng phủ trên bề mặt đối tượng. Lớp màng này có thể là sơn (sơn lỏng thông thường, sơn tĩnh điện dạng lỏng kiểu “nhúng”, sơn tĩnh điện dạng bột), phun gốm plasma, tráng men và / hay nhúng kim loại nóng. Bề mặt vật sơn phủ – tráng không sạch dầu và gỉ sẽ tạo các điểm / mảng rỗ, tạo điều kiện bong tróc, vỡ gẫy lớp sơn – phủ – tráng bề mặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sản phẩm.

Tẩy rửa – vần đề nền tảng của nhiều vấn đề.

Mạ điện / sơn phủ – tráng (trong đó rất quan trọng đối với sơn tĩnh điện) vv.. thì độ sạch bề mặt là rất quan trọng. Tẩy rửa phải được thực hiện tốt và phải hoàn tất trước khi mạ, phun sơn hay nhúng (với sơn tỉnh điện “nhúng” zirconium hay chromium hoặc phun ceramic-plasma / tráng men) và trước phosphate-hóa (hay manganat-hóa hoặc magienat-hóa với sơn tĩnh điện “bột” hoặc mạ kẽm nóng). Nói một cách khác, qui trình tẩy sửa quyết định sự thành công của ngành mạ điện / sơn phủ – tráng.

Qui trình tẩy rửa bề mặt cổ điển.

Vài trăm năm tồn tại của ngành mạ điện / sơn phủ – tráng đã hình thành một qui trình tẩy rửa (tên gọi mỹ miều là xử lý bề mặt). Qui trình hoàn chỉnh (thường xuyên bị cắt bớt) bao gồm 7 bước:

1- Thấm ướt bề mặt : tạo điều kiện tiếp xúc tốt giữa bề mặt Obj và các chất tẩy rửa.

2- Tẩy rửa bằng dung môi : (thường dùng acid nồng độ cao cho rẻ tiền) nhằm hòa tan / đánh bật các chất bám / mảng bám trên bề mặt Obj, tạo điều kiện cho các bước tiếp theo.

3- Trung hòa bề mặt bằng nước hoặc có hóa chất.

4- Tẩy rửa bằng xà phòng / chất kiềm. Mục tiêu là phá, bóc dầu mỡ còn sót lại trên bề mặt Obj. Đặc biệt là dầu mỡ tạo lớp ngăn điện hóa đối với mạ điện và sơn tĩnh điện nên bước tẩy dầu (mỡ) là rất quan trọng. Ở VN thì bước này thường được kết hợp với xô chậu, bàn chải và vô số thứ linh tinh khác. Tuy nhiên những vị trí “hiểm” của Obj có cấu tạo phức tạp, ngóc ngách hay ống sâu thì đều … lờ đi vì bó tay.

5- Trung hòa bề mặt bằng nước.

6- Tẩy rửa bằng acide : nhằm tẩy sạch các vết bám của silic, của carbone và gỉ, đặc biệt đối với kim loại đen và sắt carbone.

7- Trung hòa bề mặt bằng nước / sấy khô.

Qui trình 7 bước này để lại hậu quả môi trường nặng nề vì các dư chất hóa học mang theo kim loại nặng liên tục thải vào môi trường, mà lại có hiệu quả khá kém. Tuy nhiên nó vẫn được dùng phổ biến vì … không có cách nào khác.

Qui trình Wambuakim tẩy rửa bề mặt : xanh & hiện đại.

Qui trình Wambuakim (còn gọi là qui trình 7 in 1) sử dụng :

–          Nước muối là chất thấm ướt bề mặt.

–          Siêu âm động lực tác động lên bề mặt để bóc tách mảng bám.

–          Phản ứng điện hóa tạo kiềm bề mặt để tẩy dầu mỡ.

–          Phản ứng điện hóa tạo acide bề mặt để tẩy gỉ.

–          Phản ứng điện hóa thuận nghịch để trung hòa bề mặt.

–          Phun sương nước để loại bỏ muối dư.

Qui trình Wambuakim đã được sử dụng ở CTy Cơ Khí Phương Nam, Q9, TP HCM (1998); CTy Cơ Khí Hợp Nhất (Vĩnh Viễn, Q10 TP HCM (2000); CTy Rạng Đông, Thủ Thừa, Long An (2001); CTy Sơn Tĩnh điện Nhật Hạ, KCN Tân Bình (2004); CTy Sơn Tĩnh điện Đồng Tâm, Nguyễn Văn Quá, Tân Bình (2005); CTy lắp ráp Ô Tô Sài Gòn SAGACO (2007) và một số CTy khác.

Phân tích kỹ thuật :

1/. Vật mạ Obj nối điện được nhúng vào bồn chứa nước muối ăn NaCl / nH2O có bố trí điện cực. Một dòng điện xoay chiều trong vài giây làm cho bề mặt Obj vật mạ phóng xuất khí H2 và O2, một lượng nước Javel NaClO có hoạt tính bề mặt và tẩy màu rất cao được tạo ra, tấm ướt và tẩy sơ bộ bề mặt Obj.

2/. Cùng lúc, siêu âm động lực tần số 27 KHz (đến 43 KHz) liên tục tác động trên bề mặt Obj trong suốt quá trình tẩy rửa, bóc tách tất cả các vật chất đã phân ly trong qui trình kim_techno.

3/. Dòng điện một chiều với cực (-) là Obj được cấp trong thời gian thích hợp. Phản ứng Ion tạo kiềm trên bề mặt Obj kết hợp với bọt khí và siêu âm phân hóa và tống dầu mỡ khỏi bề mặt Obj.

NaCl   —>   Na+  +  Cl-

Na+   +  H2O  —>  NaOH + ½ H2 /^

(hidro thoát ra ở âm cực / Obj và oxi thoát ra ở dương cực bố trí trên thành bồn chứa).

4/. Dòng điện đảo cực, phản ứng điện hóa tạo Chlohidric acide trên bề mặt, trung hòa kiềm, sau đó đánh tan gỉ sét.

Cl-   +  H2O  —>  HCl + O2 /^

(oxi thoát ra ở dương cực / Obj và hidro thoát ra ở âm cực bố trí trên thành bồn chứa).

5/. Dòng điện xoay chiều lại được cấp, trung hòa ngay acid dư + lớp ferrate xốp được tạo ra. Nếu mục tiêu là mạ điện thì không cần mục (5) này. Obj được nhấc khỏi bồn tẩy rửa. Nước phun dạng sương đẩy trôi lượng muối dư bề mặt Obj.

Quá trình làm khô sau đó hoàn tất quá trình tẩy rửa.

Biểu hiện :

–          Vật tẩy được khử bỏ từ dầu mỡ đến gỉ sét.

–          Bề mặt được lớp ferrate xốp màu xám bảo vệ nên không bị tái gỉ và tạo điều kiện cho sơn tĩnh điện bám chắc.

Hiệu quả kinh tế – kỹ thuật :

–          Gọn nhẹ : Chỉ 1 bồn tẩy rửa duy nhất, không rườm rà như qui trình 7 bước. Riêng đối với sơn tĩnh điện, qui trình kim_techno còn loại bỏ 3 bước của quá trình phosphate hóa.

–          Không dùng dung môi và các chất tẩy rửa độc hại, qui trình kim_techno an toàn, thân thiện và không gây ô nhiễm môi trường.

–          Có thể tự động hóa hoàn toàn.

–          Chi phí tổng thể rất thấp, khoảng 25% đến 30% so với qui trình cổ điển.

Các khoản mục đầu tư.

1/. Bồn tẩy rửa 7 in 1 : 01

2/. Buồng phun sương nước : 01.

3/. Máy phát siêu âm + phát điện động lực lập trình 5 (đến 7) đề mục : 01.

(Bản chiết tính đầu tư chi tiết, xin các bạn liên lạc riêng)

—————————-

Wambuakim

27 / 7 / 1997

—————————

Update tại CTy Vũ Lân

75 Cầu Bươu, Thanh Trì, Hà Nội

10 / 10 / 2012

 

NGOẠI BÌ HỌC PHẦN II (DA HỌC II, tiếp theo)

NGOẠI BÌ HỌC II (DA HỌC II) 

(Tiếp theo phần I)

4/. Nhóm bệnh ngoại bì do dị ứng

 

4a/. Bệnh chàm :

Nguyên nhân bệnh rất đa dạng và phức tạp, được xác định là do một số tác nhân và yếu tố dễ gây bệnh hình thành như:

Dị ứng với hóa chất trong sinh hoạt, trong nghề nghiệp như xăng dầu, xà phòng, xi măng.

Do nhiễm khuẩn trong khi tiếp xúc với bùn đất, nước bẩn hay gặp nhất là do liên cầu trùng trong thể tổ đỉa nung mủ

Do dị ứng với nhiễm nấm ở kẽ chân

Do thay đổi thời tiết theo mùa

Do ảnh hưởng của ánh sáng và nóng ẩm.

Những yếu tố sau đây có thể thúc đẩy tình trạng bệnh khởi phát hoặc nặng hơn:

+) Yếu tố tại chỗ: chất tẩy rửa, xà phòng, dung môi, giày dép chật, chất liệu da, đổ mồ hôi nhiều…

+) Yếu tố trong không khí: khói thuốc, lông chó mèo, đất bùn, mạt bụi nhà…

+) Nhiễm trùng (tụ cầu vàng)

+) Thực phẩm gây dị ứng: hải sản, trứng, thịt gà, bò, đậu phộng, đậu nành, đồ lên men, tinh bột…

 

4b/. Tổ đỉa: là bệnh dị ứng, rất hay gặp ở tay, tiếng Anh gọi là Pompholyx, hoặc viêm da mụn nước ở lòng bàn tay và bàn chân. Bệnh nhân thường có thể tạng dị ứng và bệnh thường xảy ra sau cơn stress.

Tổ đỉa có tên khoa học là Dysidrose, là một thể đặc biệt của bệnh chàm, khu trú ở lòng bàn tay, bàn chân và rìa các ngón, Bệnh thường gặp ở tuổi từ 20 đến 40, nam nữ có tỷ lệ bằng nhau. Bất kì ai cũng có thể mắc phải bệnh tổ đỉa nếu như thường xuyên lặp lại những thói quen vệ sinh không đúng cách hàng ngày.

 

4c/. Eczema là phản ứng viêm lớp nông của da, cấp tính hoặc mạn tính. Đây là một bệnh ngoài da phổ hiến..sản xuất công nghiệp và trong sinh hoạt càng sử dụng nhiều hóa chất thì bệnh Eczema càng phái triển.

Nguyên nhân gây bệnh Eczéma rất phức tạp, rất khó tìm được nguyên nhân chính. Eczema xảy ra trên một thể tạng đặc biệt, nghĩa là loại cơ thể dễ bị dị ứng với chất này hoặc chất khác mà người khác thì không bị ảnh hưởng gì. Chất gây dị ứng gọi là kháng nguyên dị ứng.

Thông thường có hai loại nguyên nhân:

* Nguyên nhân bên ngoài: Trong môi trường chung quanh có thể có nhiều tác nhân gây bệnh thuộc các yếu tố vật lý, hóa học, thực vật

Ví dụ: ánh sáng mặt trời, sâu bọ, thuốc uống, thuốc bôi…v.v… hoặc có thể do hóa chất dùng trong gia đình như: xà bông, xi măng, dầu mỡ, chất nhuộm, cao su, mỹ phẩm…v.v…

* Nguyên nhân bên trong: Phức tạp và khó xác định hơn như: Rối loạn thần kinh (xúc cảm mạnh, suy nghĩ lo âu, làm việc căng thẳng); rối loạn tiêu hóa (táo bón, viêm đại tràng, giun sán); nội tiết (có mang, tiền mãn kinh, tuổi già v.v…). Trong cơ thể bệnh nhân có lưu hành những chất chuyển hóa dở dang, những chất đạm lạ cũng gây Eczéma.

 

4d/. Nổi mề đay mẩn ngứa: là một bệnh da phổ biến, rất dễ nhận biết nhưng lại khó phát hiện nguyên nhân dù đã làm đầy đủ các xét nghiệm. Có nhiều yếu tố gây bệnh (bên trong, bên ngoài cơ thể, thể tạng) và trên một bệnh nhân, nhiều khi không chỉ có một mà gồm nhiều yếu tố cùng kết hợp.

Bệnh nổi mề đay mẩn ngứa là do thể tạng dị ứng với một số tác nhân từ môi trường bên ngoài như: dị ứng thực phẩm, thời tiết, môi trường ô nhiễm, nguồn nước bẩn, dị ứng thuốc…. Dù là tác nhân gì gây ra nhưng biểu hiện của bệnh khá đặc trưng là gây ngứa da, ngứa bứt dứt khó chịu, sưng phù. Có thể kèm theo một số triệu chứng ít gặp như rối loạn tiêu hóa, suy hô hấp, ra mồ hôi lạnh, tụt huyết áp ….

Thuốc trị bệnh nổi mề đay chủ yếu là các kháng histamin để ngăn chặn phản ứng dị ứng, làm giảm các triệu chứng bệnh. Kèm theo các thuốc như corticoid, kháng sinh dùng trong trường hợp viêm nhiễm.

Trong dân giansử dụng một số thảo dược trị bệnh như: lá khế, lá kinh giới, lá đơn đỏ, ngải cứu …

 

4e/. Dị ứng da: Ngứa, bị dị ứng, nổi mẩn đỏ là một hiện tượng rất hay gặp trong đời sống sinh hoạt. Nguyên nhân có thể do người bệnh ăn phải các thực phẩm dễ gây dị ứng, do thay đổi thời tiết hoặc cũng có thể là dấu hiệu của một số bệnh ngoài da, dị ứng, bệnh nội tạng …

 

Triệu chứng : Ngoài các dấu hiệu chính là ngứa, da thường có vết xước, nổi mẩn đỏ với nhiều hình dạng khác nhau. Người bị dị ứng thường nổi những mẩn đỏ thành vết, đám hoặc sần nề, gồ cao hơn mặt da, ranh giới rõ, tròn hoặc vằn vèo, màu hồng nhạt, ở giữa hơi bạc màu, rắn chắc, có thể xuất hiện khắp người hoặc từng vùng. Nếu càng gãi thì các mẩn đỏ càng rõ hơn và ngứa nhiều hơn.

Các dạng dị ứng phổ biến nhất đó là dị ứng thực phẩm, dị ứng thời tiết, và dị ứng mắt, hay viêm mũi dị ứng.

 

♦ Dị ứng thực phẩm

Dị ứng thực phẩm có thể gặp ở bất cứ ai, ở bất cứ độ tuổi nào. Khi ăn phải nhóm thực phẩm dễ dị ứng, người bệnh sẽ bị nổi mẩn đỏ ngoài da, nổi mề đay, ngứa, sưng đỏ, mạch máu sưng phồng. Ở hệ thống tiêu hóa thì môi, miệng, và cuống họng sưng phồng, đầy bụng , nôn mửa, bụng đau cuộn, tiêu chảy. Ở hệ thống hô hấp thì khó thở, suyễn, khò khè, ho, nghẹt mũi, chảy nước mũi. Ở mỗi người có một biểu hiện khác nhau, có người không xuất hiện đầy đủ các triệu chứng, dị ứng có thể xảy ra ngay khi ăn thực phẩm dị ứng hoặc sau vài giờ, có khi vài ngày sau đó.

Với một số người cảm ứng quá mạnh, chỉ cần ngửi hay sờ mò vào thực phẩm là có thể bị dị ứng. Nếu bạn đã từng bị dị ứng thực phẩm, trước khi ăn bất cứ món lạ nào, nhất là ở tiệm bạn hãy hỏi kỹ về món ăn đó, và nhớ mang theo các thuốc chống dị ứng để phòng trường hợp bất trắc.

 

♦ Dị ứng thời tiết (a).

Người bị dị ứng thời tiết thường có những biểu hiện như ngứa mũi, tai, mắt, miệng, họng, da hoặc trên bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể. Hắt hơi sổ mũi nhiều lần, chảy nước mũi trong, giảm khướu giác, nặng hơn là nghẹt mũi, ho, ù tai, đau họng có quầng thâm, phù nề dưới mi mắt, mệt mỏi, nhức đầu và đôi khi cũng ảnh hưởng đến việc xử lý bộ nhớ của não bộ.

Đặc điểm của người bị dị ứng thời tiết thường là da rất nhậy cảm với sự thay đổi của thời tiết. Do đó khi thời tiết thay đổi từ nóng sang lạnh hoặc ngược lại rất dễ khiến da bị ảnh hưởng.

 

♦ Dị ứng thời tiết (b).

Người bị dị ứng thời tiết nên được ủ ấm trong chăn khi bị ngứa, vì khi đó phần ngứa sẽ được giảm đi, khi cơ thể nóng lên và ra mồ hôi khiến da bớt khô, bớt bị kích ứng. Bên cạnh đó, người bệnh cần hạn chế tắm nước nóng, tăng cường uống nước, ăn hoa quả, ít sử dụng chất kích thích. Trong trường hợp bụi nhà là thủ phạm, cần thường xuyên lau rửa giường, thay ga đệm hàng tuần, dùng quạt gió để giảm độ ẩm trong nhà.

 

♦ Dị ứng hóa chất và hóa mỹ phẩm : các dòng mỹ phẩm thường làm phụ nữ lóa mắt nhưng chúng lại mang đến những kích ứng, dị ứng da gây tổn hại thẩm mỹ, sức khỏe, tâm lý, tiền bạc và thời gian, công việc. Xử lý chúng là một vấn đề không nhỏ.

 

♦ Xử lý dị ứng, nổi mẩn đỏ :

Khi có những biểu hiện dị ứng, nổi mẩn đỏ cần tìm sớm và loại bỏ các yếu tố gây bệnh nếu biết. Nếu đã có tiền sử dị ứng với thực phẩm thì cần loai bỏ các thức ăn, thuốc có thể gây dị ứng. Tránh sử dụng các chất gây kích thích như gia vị, rượu, trà, cafe…trong các trường hơp nặng có thể sử dụng thuốc chống dị ứng nhưng nên tham khảo ý kiến bác sỹ hoặc người có chuyên môn. Trường hợp bị dị ứng nổi mẩn đỏ thường xuyên, lặp lại thì nên khám tại các bác sỹ chuyên khoa, có thể làm thêm xét nghiệm để tìm đúng nguyên nhân và có cách điều trị thích hợp.

 

4f/. Dị ứng nổi mề đay(hay còn gọi là bệnh mề đay) là một hiện tượng rất phổ biến kể cả trẻ em lẫn người lớn. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng này trong đó có thể kể tới một số yếu tố như thời tiết, thức ăn, lông động vật, phấn hoa, côn trùng ….tác động vào cơ thể.

 

Mề đay là một phản ứng viêm của da, có cơ chế phức tạp, trong đó có sự can thiệp của chất trung gian hóa học chính là histamin. Tuy là một bệnh da phổ biến, rất dễ nhận biết nhưng lại khó phát hiện nguyên nhân dù đã làm đầy đủ các xét nghiệm.

 

Người ta phân loại mề đay thành 2 dạng cấp tính và mãn tính.

Dạng cấp tính có biểu hiện đột ngột ở bất cứ vùng nào trên cơ thể làm cho da sần, phù nề, ngứa dữ dội. Cơn xảy ra trong vài phút hoặc vài giờ rồi lặn hoặc có thể từng đợt kế tiếp nhau. Trong cơn mề đay cấp có thể kèm theo sốt cao, nôn mửa, đau quặn bụng, khó thở…

Dạng mề đay mãn tính là hiện tượng mề đay thường kéo dài trên 8 tuần, không kể nhiều hay ít, có khi ngắt quãng nhiều ngày, có thể gặp các dạng khác nhau.

 

Hầu hết hiện tượng mề đay thường có nguyên nhân sâu sa từ chức năng tiêu độc của gan và chức năng bài tiết của thận suy giảm. Để điều trị mề đay tốt nhất là cần loại bỏ yếu tố gây bệnh nếu biết, và cần cho bệnh nhân cách ly với một số thức ăn, thuốc có thể gây dị ứng. Đặc biệt cần tránh các chất kích thích như: gia vị, rượu, trà, cà phê…

Trong trường hợp mề đay mãn tính thường có liên quan tới các bệnh lý bên trong nên bệnh nhân cần đến bác sĩ chuyên khoa khám, làm thêm các xét nghiệm cần thiết để tìm đúng nguyên nhân và có cách điều trị thích hợp.

 

Dị ứng của cơ thể xảy ra khi hệ miễn dịch của một cá nhân phản ứng lại với một chất hiện diện trong môi trường. Dị ứng có thể dẫn đến các vấn đề về hô hấp, đau đầu và kích ứng da. Các dạng dị ứng thường gặp có thể kể đến như dị ứng khi gặp không khí lạnh, dị ứng với sex (thường là dị ứng khi tiếp xúc với tinh dịch), dị ứng với phấn hoa, dị ứng khói thuốc, dị ứng mỹ phẩm, phân ve, khi thay đổi khí hậu hoặc một số ít dị ứng với ánh nắng mặt trời, nước hoa, động vật có vỏ, hải sản và thuốc. Khi bị dị ứng cần tìm nhanh và cách ly với các tác nhân gây dị ứng. Một số trường hợp cần sự can thiệp của thuốc nhưng cần có chỉ định của nhà chuyên môn.

 

5/. Nhóm bệnh ngoại bì do tự miễn

 

5a/. Bệnh vảy nến: có nguồn gốc tự miễn, là một bệnh mãn tính xảy ra khi các tế bào da phát triển quá nhanh chóng, cơ thể không thể lột da tế bào dư thừa này do đó những mảng vảy màu trắng bạc xếp thành nhiều lớp như sáp nến.

Vảy nến là bệnh ngoài da mãn tính điển hình, cần biết những thông tin đúng về bệnh nhằm kịp thời xử lý điều trị bệnh vảy nến tính cực nhất. Căn bệnh này là đề tài được nghiên cứu rất nhiều thập kỷ nhưng cho đến nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân phát sinh cũng như chưa tìm được cách trị bệnh. Vảy nến được lý giải do sự phát triển quá nhanh chóng của tế bào da dẫn đến chồng chéo nhiều lớp tế bào mới cũ. xuất hiện do một số tác nhân gây nên như:

 

– Rối loạn hệ thống miễn dịch,

– Yếu tố di truyền,

– Nhiễm khuẩn,

– Chấn thương thượng bì,

– Ánh sáng, môi trường tác động,

– Yếu tố tinh thần, sang chấn tâm lý…

 

Quá trình phát bệnh xảy ra đột ngột trên một vùng da hay nhiều vùng da cùng lúc gây nên những trấn thương hay gặp như da bong tróc vảy có màu trắng hoặc hồng nhạt, rát da, ngứa da, có thể bị viêm nhiễm ngoài da có mủ nếu không điều trị đúng. Dựa vào triệu chứng của bệnh vảy nến người ta cũng phân vảy nến ra làm một số dạng như:

 

– Vảy nến thể mảng

– Vảy nến thể mủ

– Vảy nến thể móng

– Vảy nến da đầu

– Vảy nến toàn thân

 

♦ Cách chữa bệnh vảy nến:

Bệnh vảy nến là căn bệnh ngoài da mãn tính, cho tới nay Đông-Tây Y vẫn chưa có bất kì phương pháp trị bệnh nào. Hầu hết các phương pháp điều trị chỉ là làm thuyên giảm các triệu chứng của bệnh vảy nến mà thôi. Một số biện pháp dùng trị bệnh vảy nến như:

Thuốc chữa bệnh vảy nến: Nhóm thuốc ức chế miễn dịch (cyclosporin, methotrexate, adalimumab…) , các nhóm retinoid (acitretin, tazarotene…), các nhóm corticosteroid (Betamethasone, clobetasol….)nhưng tác dụng rất hạn chế

Phương pháp ánh sáng: Dùng công nghệ hiện đại chiếu các bước sóng phù hợp vào da giúp đẩy lui các triệu chứng của bệnh vảy nến. Phương pháp này thu được kết quả khá hơn nhưng dễ gây ra tác dụng nguy hiểmtrong đó có ung thư da.

 

5b/. Bệnh Lupus hệ thống và lupus ban đỏ hệ thông: Là bệnh có tỷ lệ cao nhất trong nhóm bệnh tạo keo (60%) biểu hiện viêm lan tỏa hay rải rác ở tổ chức liên kết, nguyên nhân do tự miễn.Bệnh gặp chủ yếu ở phụ nữ trẻ, tỷ lệ nữ/nam: 8/1.Ngày nay chứng Lupus được xem là bệnh tự miễn trên 1 thể tạng đặc biệt.

 

– Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở lứa tuổi 20 – 40.

– Người da đen có tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong cao gấp 3 lần da trắng, tỷ lệ bệnh cao theo thứ tự: da đen, Châu Á, da trắng.

 

♦ Bằng chứng về tự miễn :

 

– Trong thể dịch bệnh nhân có nhiều tự kháng thể: kháng thể kháng nhân, kháng thể kháng acid nhân (AND, ARN), kháng các huyết cầu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu).

– Lượng bổ thể giảm rõ rệt trong máu (CH50, C3, C4), phản ứng BW dương tính giả, phát hiện các phức hợp miễn dịch trong máu và tổ chức.

– Tỷ lệ Limpho B và T thay đổi trong máu.

– Có thể gây bệnh trên súc vật bằng phương pháp miễn dịch.

– Điều trị Lupus bằng các thuốc ức chế miễn dịch có kết quả.

 

5c/. Pemphigus :

 

Pemphigus là một nhóm bệnh bọng nước tự miễn dịch hiếm gặp của da và (hay) các niêm mạc. Pemphigus không lây – thậm chí khi tiếp xúc máu.

 

Thông thường hệ thống miễn dịch của cơ thể tạo ra các kháng thể tấn công những virus và vi khuẩn có hại trong nỗ lực nhằm giữ cho cơ thể khoẻ mạnh. Tuy nhiên, ở một người mắc bệnh pemphigus, hệ thống miễn dịch nhận định nhầm các tế bào ở da và/hay các niêm mạc là những vật chất lạ, và tấn công chúng. Các kháng thể tấn công các tế bào của chính cơ thể mình được gọi là những tự kháng thể. Trong pemphigus, tế bào bị tấn công tại những cầu nối desmosome. Các desmosome là cầu nối giữa những tế bào gai giữ cho da nguyên vẹn.

Khi những tự kháng thể tấn công các desmosome, các tế bào gai bị chia tách, dịch gian bào tập trung tại vị trí tổn thương hình thành bọng nước. Điều này gây nên thương tổn giống như bị bỏng hay vết rộp không lành lại. Ở một số rường hợp, những vết rộp đó có thể chiếm một vùng rộng trên cơ thể.

Có nhiều loại pemphigus, và chẩn đoán bệnh sớm là một điều quan trọng. Dù có thể có tính chất di truyền và một số nhóm người có thể có nguy cơ cao hơn về căn bệnh này, thì bệnh không có vẻ ảnh hưởng tới những người theo đặc trưng chủng tộc và phạm vi văn hoá, vì thế không thể nói rằng ai sẽ có thể mắc bệnh pemphigus. Bệnh có thể điều trị và có những hỗ trợ để người bệnh có thể sống chung với bệnh, gồm cả thông tin về dinh dưỡng và chăm sóc.

 

Bởi vì là một bệnh hiếm, pemphigus thường là điều cuối cùng người ta nghĩ tới khi chẩn đoán bệnh. Cần hỏi ý kiến một thầy thuốc da liễu nếu có bất kỳ thương tổn da hay miệng kéo dài nào. Chẩn đoán sớm có thể cho phép điều trị thành công với mức độ sử dụng thuốc thấp.

 

Có ba tiêu chí cho một chẩn đoán xác định Pemphigus:

 

Khám bệnh tại bệnh viện — khám bằng mắt về những tổn thương da.

Sinh thiết thương tổn — Lấy một mẫu da rộp và khám nghiệm bằng kính hiển vi để xác định xem tế bào có bị phân chia theo cách đặc trưng của pemphigus. Ngoài ra, lớp da có hiện tượng chia tách tế bào có thể được xác định.

Huỳnh quang miễn dịch trực tiếp (direct immunofluorescence) — Mẫu sinh thiết da được xử lý để để phát hiện các tự kháng thể kháng desmosome của da. Sự hiện diện của các tự kháng thể đó cho thấy dấu hiệu của pemphigus.

Ngoài những điều trên, một xét nghiệm chẩn đoán khác cũng có thể được sử dụng, được gọi là huỳnh quang miễn dịch gián tiếp hay xét nghiệm hiệu giá tự kháng thể. Xét nghiệm này xác định các tự kháng thể kháng desmosome trong huyết thanh máu. Nó có thể được dùng để xác định rõ hơn về mức độ bệnh. Ngoài ra, một thử nghiệm huyết thanh về các tự kháng thể desmoglein, được gọi là ELISA, cũng có thể được thực hiện. Nó là biện pháp chính xác nhất, tuy nhiên không phải tất cả các phòng thí nghiệm đều thực hiện được xét nghiệm này.

 

Các dạng pemphigus

Có nhiều dạng pemphigus. Ba dạng chính là pemphigus vulgaris, pemphigus foliaceus, và paraneoplastic pemphigus.

Pemphigus Vulgaris (PV)

Thuật ngữ “vulgar” có nghĩa “thông thường,” và PV là dạng thường được chẩn đoán nhất của pemphigus. Những chỗ đau và rộp da luôn xuất hiện đầu tiên ở miệng. Bởi vì da là một cơ quan của cơ thể nên PV được gọi là bệnh đơn cơ quan. Nó không gây ảnh hưởng gì tới các cơ quan bên trong. Những vết rộp có thể lan tới dây thanh quản, nhưng không thể xa hơn. PV không gây ra sẹo vĩnh viễn trừ khi có sự nhiễm trùng ở vị trí thương tổn. Trong kiểu bệnh này, các tự kháng thể tấn công protein “keo”, là chất giữ các tế bào da dính với nhau, được gọi là desmoglein. Các thương tổn rất đau đớn. Thỉnh thoảng có xuất hiện hiệu ứng Nikolsky, chỉ cần chạm vào da cũng đủ khiến nó rách ra. Trước kia, khi chưa được điều trị bằng thuốc, PV gây ra tỷ lệ tử vong 99%, nhưng với các liệu pháp chữa trị hiện nay, tỷ lệ tử vong giảm xuống chỉ còn 5 đến 15%

Pemphigus Foliaceus (PF)

Ở loại pemphigus foliaceus này, các vết rộp và đau không xuất hiện ở miệng. Những vảy cứng đau nhức hay những vết rộp dễ vỡ thường xuất hiện đầu tiên trên mặt và da đầu và sau đó lan xuống ngực và lưng.

Các tự kháng thể được hệ miễn dịch sản xuất ra nhưng chúng chỉ liên kết với desmoglein 1. Các vết rộp rất nông và thường gây ngứa, nhưng không gây đau đớn như PV.

Đối với PF, thương tổn gây biến dạng da có thể xảy ra, nhưng tỷ lệ tử vong của kiểu bệnh này thấp hơn so với PV.

Paraneoplastic Pemphigus (PNP)

PNP là kiểu pemphigus nguy hiểm nhất. Nó thường xảy ra với những người có tiền sử chẩn đoán mắc một bệnh ác tính (ung thư). Tuy nhiên, nó lại là tuýp bệnh ít xảy ra nhất. Nó luôn xuất hiện những thương tổn đau đớn trong miệng, môi và thực quản, và xảy ra thương tổn da theo nhiều kiểu. PNP có thể gây ảnh hưởng đến phổi. Trong một số trường hợp việc chẩn đoán bệnh có thể khiến các bác sĩ phải lưu ý tìm kiếm một khối u ẩn. Một số trường hợp khối u là lành tính và tình trạng bệnh sẽ được cải thiện nếu khối u được loại bỏ bằng phẫu thuật.

Dạng bệnh này hiếm khi xảy ra và trông nó rất khác biệt so với những hình thái pemphigus khác. Các tự kháng thể trong máu cũng khác biệt và sự khác biệt đó có thể được xác định bằng các xét nghiệm.

———-Wambuakim———-

Xin xem tiếp NGOẠI BÌ HỌC III 

PHÁT ĐIỆN DÙNG NĂNG LƯỢNG SÓNG BIỂN

Bản thuyết minh Kỹ thuật.

(Technic’s Lecture)

KỸ THUẬT PHÁT ĐIỆN SÓNG BIỂN

 

Sóng biển – nguồn năng lượng khổng lồ và vô tận

Mặt biển chiếm diện tích ~ 3/4 bề mặt địa cầu. Trung bình, nước biển có độ mặn khoảng 3,5% , nghĩa là mỗi lít nước biển chứa khoảng 35 gam muối, phần lớn là clorua natri (NaCl) hòa tan dưới dạng các ion Na+ và Cl-. Nước biển có thể được biểu diễn như là 0,6 M NaCl, có mức độ thẩm thấu cao và không thể uống được. Biển còn chứa một danh sách động – thực vật – thuỷ sinh khổng lồ nuôi dưỡng nhân loại. Biển cả luôn luôn nằm trong đáy sâu tâm khảm nhân loại, chiếm lĩnh một bộ phận lớn tư duy văn học, thơ ca thế giới.

Từ hàng nghìn năm qua, con người đã biết sử dụng nước biển để làm muối ăn, muối công nghiệp (sản xuất Sud, clohydric acid, soda Ash, ocid magne, v.v…), để phát triển ngư nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản biển, giao thông vận tải hàng hải và để …. chứa vô tội vạ các loại chất thải, nước thải sinh hoạt và công nghiệp.

A/. Khai thác năng lượng từ biển.

Nhận thức được năng lượng sóng biển có hiệu năng gấp 100 lần năng lượng mặt trời nên thời gian 25 năm gần đây có rất nhiều cố gắng khai thác năng lượng (điện) từ biển.

1/. Cổ điển nhất là điện thuỷ triều. Dựa vào địa hình đặc biệt hoặc cửa sông với các đập chắn có cổng van đóng – mở theo chu trình thuỷ triều, lúc thuỷ triều lên mở cổng van thì tích nước, thuỷ triều xuống thì xả nước biển qua các turbine thuỷ điện. Nhà mày điện thuỷ triều thường có đầu tư rất lớn nhưng phát điện không thường xuyên, dễ bị xâm thực hoá học bởi thành phần nước biển v.v… nên thường chỉ được sử dụng như một nguồn điện phụ.

2/. Máy phát điện dùng nhiệt nước biển : Lợi dụng sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tầng nước giúp ammoniac bốc hơi rồi hoá lỏng trở lại bằng qui trình Hemmolt.
Đầu tiên, người ta dùng nước biển phía trên (có nhiệt độ 28-34 độ C) để hâm nóng một hỗn hợp ammoniac, khiến nó bốc hơi và đẩy turbine quay. Sau đó, ammoniac được dẫn xuống tầng nước biển phía dưới (10-15 độ C) để làm lỏng trở lại. Tiếp theo, ammoniac lỏng lại được bơm vào thùng hỗn hợp phía trên. Cứ như vậy, người ta có một vòng tròn khép kín, chuyển nhiệt lượng của nước biển thành điện năng.
Đầu tư cho nhà máy phát điện dạng này dĩ nhiên là rất tốn kém, công suất hạn chế, tính khả thi thấp.

3/. Sử dụng chênh lệch độ mặn của nước sông với nước biển : Pin hoạt độ là một loại Pin có cấu tạo đơn giản, bao gồm hai điện cực (+) bằng magne và (-) bằng than graphite, được đặt nằm trong một chất lỏng có chứa các hạt tích điện, hoặc ion, hấp phụ bằng than hoạt tính. Chất lỏng này có thành phần là muối ăn thông thường NaCl bao gồm các ion Natri và Clo.
Ban đầu, pin được làm đầy nước ngọt và một dòng điện nhỏ được sử dụng để nạp điện (nạp điện mồi). Sau đó tháo nước ngọt và thay thế bằng nước biển. Bởi vì nước biển chứa các ion nhiều hơn từ 60 đến 100 lần so với nước ngọt, tạo ra điện áp giữa hai điện cực. Điều đó làm cho nó có thể thu điện gấp nhiều lần so với năng lượng để sạc pin.
Pin hoạt độ và dạng phát điện này có công suất vừa phải nhưng vận hành không đơn giản và giá nước ngọt không phải là rẻ. Nhà nghiên cứu Yi Cui than thở rằng yếu tố hạn chế công nghệ này là số lượng nước ngọt có sẵn. “Chúng ta thực sự có một số lượng vô hạn của nước đại dương, tiếc là chúng ta không có một số lượng vô hạn của nước ngọt”.

B/. Máy phát điện sóng biển.

I/. Các dạng máy phát điện sóng biển :

  1. Hệ thống Fraunhofer :

Trong hệ thống này, phao nổi treo trên cánh tay của thân tàu dài 50m nhấp nhô lên và xuống cùng với sự chuyển động của sóng biển. Chuyển động này sẽ tạo ra điện và được lưu trữ trong một hệ thống pin trên tàu. Trong trường hợp có bão, tất cả các phần phụ đi kèm chỉ đơn giản là ngắt kết nối, xếp gọn gàng và an toàn.

  1. Tuabin diều ngầm dưới nước :

Thay vì đặt các hệ thống khai thác năng lượng trên mặt nước, diều dưới nước (dài từ 8-14 mét) là sự kết hợp của gió và sóng. Những cánh diều này có cánh quạt quay khi thủy triều đi qua. Cũng giống như thuyền buồm có thể chuyển động nhờ những cơn gió, sự chuyển động nhào xuống của diều đã khuếch đại tốc độ nước lên đến 10 lần. Diều đã được thiết kế với sức nổi trung bình và có nắp đậy để bảo vệ các tuabin.

  1. 3. Thiết bị kiểu hàu biển (Oyster Machine)

Oyster là một bộ máy khổng lồ, có hình dạng như con hàu nằm nghỉ ngơi dưới đáy đại dương và đáy biển. Thiết bị sử dụng công nghệ thủy lực, nó chuyển năng lượng sóng vào bờ thành điện. Chiều rộng dao động khoảng 18m được lắp với piston. Nó được kích hoạt bởi sóng và máy bơm nước thông qua một đường ống dưới biển.

  1. 4. Phao nPower WEC

Tương tự như cơ chế hoạt động của diều dưới nước, hệ thống này được neo vào đáy đại dương và các phao nổi trên bề mặt. Chuyển động nhấp nhô sẽ tạo ra điện thông qua các tuabin. Các phao sẽ được lắp đặt thành các cụm và theo thứ tự.

  1. 5. Thiết bị hỗn hợp tế bào mặt trời nổi trên biển

Đây là máy phát điện hỗn hợp sử dụng năng lượng mặt trời và năng lượng sóng. Các phao được gắn hệ thống quang điện thu nạp năng lượng mặt trời và thu nạp năng lượng của sóng.

II/. Mô hình phát điện sóng biển Wambuakim :

Mô hình của Wambuakim từ năm 1986 tại xã Hàm Tiến, Thị Xã Phan Thiết (nay là TP. Phan Thiết) đã sử dụng những phương tiện giản đơn có sẵn tại địa phương, tồn tại và phát huy tác dụng trong 5 năm. Cơ cấu của máy phát điện khá đơn giản như hình sau :

a/. Chi tiết :
1/. Sóng biển : với xung lực lớn, sức xâm thực mạnh, sóng biển đe doạ và thực sự gặm nhấm bờ biển khu vực này, thường xuyên cắt đứt con đường ven biển và phá hoại các công trình, nhà ở dân dụng sát bờ.
2/. Vùng nước biển “lặng” đi do năng lượng của sóng biến đã chuyển thành điện năng.
3/. Phao nửa nổi 200 lít làm bằng thùng phuy sắt cũ, sơn chống gỉ, chống hà. Phao sẽ dập dềnh trên mặt sóng, lấy đi một phần năng lượng của sóng thông qua lực đẩy Archimeda trên thể tích phao, chiếm ~ 35% năng lượng của sóng biển. Một máy phát 7,5 KW cần chừng 6 phao như vậy. Năng lượng thu được từ phao gọi là E(A)
Dạng trụ tròn của phao cũng là điều kiện hướng sóng lên “tấm vây” (5).
4/. Tay đòn bằng gỗ tròn D = 100mm, dài 12m, cố định góc chuyển động trực phương của phao, cũng là tay biên truyền lực Archimeda.
5/. “Tấm vây” bằng gỗ dán (ván ép) phủ composite. Khi sóng vượt lên vành tròn của phao, năng lượng sóng biển tác động làm “tấm vây” ngả về sau, rồi theo xu hướng đường hồi mà dựng tự dựng trở lại chờ con sóng tiếp theo. Năng lượng thu được trên “tấm vây” chiếm khoảng 42% đến 65% năng lượng của sóng. Năng lượng thu được từ tấm vây gọi là E(B).
6/. Tay đòn collector thu năng lượng E(B) từ “tấm vây”. Tay đòn làm bẳng gỗ vuông 40 x 40 mm, dài 12,5m.
7/. Các điểm “khớp” động, ổ quay theo phương pháp Rolexian.
8/. Bệ định vị trực phương.
9/. Khu bảo vệ + bờ kè chắn sóng.
10/. Bệ thu năng E(A) của máy.
11/. Các thanh collector thu năng E(B) của máy.
12/. Nền đất bờ biền.

b/. Vận hành :
– Sóng biển làm phao chuyển động lên – xuống kiểu “dập dềnh”. Năng lượng này có mối quan hệ tương ứng với chiều cao sóng và thể tích phao.
– Cánh tay (4) chuyển động quay một góc quanh trục (7)/8. Động năng này chuyển lên trục (7)/10 bằng dây xích (sên) có cơ chế một chiều, tạo ra moment quay hữu ích E(A).
– Sóng biển vượt lên “phao”, đập vào làm xô đầy tấm vây (5) làm tấm vây này quay một góc quanh khớp động, truyền năng lượng qua tay đòn (6), thông qua thanh collector (11) đưa năng lượng E(B) vào (7)/11 chuyển thành moment quay. Moment E(A) và E(B) tổng hợp lực bằng một bộ đồng tốc để kéo Alternator phát điện.
E = E(A) + E(B)
– Khi mức nước biển thay đổi theo thuỷ triều thì khối nặng màu tím ở (10) làm thay đổi khoảng cách tay đòn và ổ quay (7)/10, duy trì ổn định cơ học của hệ.

c/. Bàn thêm :
1/. Máy phát điện năng lượng sóng biển chế tạo kiểu Kim- Techno và vận hành đơn giản, sử dụng được năng lực cơ khí + xây dựng hạn chế tại địa phương. Máy phát điện năng lượng sóng biển có thể xây dựng bất cứ nơi đâu : biển vắng không người, hải đảo.
2/. Năng lượng sóng biển cung cấp hào phóng, không mất tiền, suất đầu tư máy phát bé, giá thành điện thấp (~0,05 USD / KWh) có mãi lực và tính cạnh tranh rất cao.
3/. Không chỉ phát điện, nhà máy điện sóng biển còn là phương thức triệt tiêu tác dụng xâm thực, bảo vệ an toàn công trình cận bờ biển.
4/. Với công suất 27KW / 1m chiều dài bờ biển, thì ~3500 Km bờ biền VN chỉ cần sử dụng 5% đến 10% ở các vùng bở biển, hải đảo … năng lực kinh tế + du lịch không cao đã thoả mãn hơn 4 lần nhu cầu điện năng quốc gia của nền Kinh Tế Quốc Dân Việt Nam giai đoạn 2020 – 2050.

——-Wambuakim——–

Viết năm 1992 

 

 

SOLAR – STIRLING and MORE

Stirling Mặt trời – và hơn nữa

(bản đồ án rút gọn)

 

A/. Năng lượng mặt trời :

 

Trong phổ năng lượng tái tạo bao gồm năng lượng gió – năng lượng địa nhiệt – năng lượng mặt trời – năng lương sóng biển – năng lượng “phông nên vi ba vũ trụ” – năng lượng từ trường trái đất v.v… thì năng lượng mặt trời là một mảng rất đáng quan tâm. Điều đơn giản là năng lượng mặt trời phân bố đều khắp, đưa đến địa cầu tương đương 1,184 KW / mét vuông mặt đất bằng một tổng phổ quang học từ tử ngoại – ánh sáng nhìn thấy được – đến hồng ngoại.

 

B/. Các phương pháp SX điện từ năng lượng mặt trời chủ yếu hiện nay :

 

1/. Pin quang điện (Solar cell / solar panel).

 

Vào đầu những năm 1960, người ta đã chế tạo được pin quang điện mặt trời đầu tiên với tiếp giáp p-n trên cơ sở chất arsenua gali. Thời đó, các pin quang điện này có hiệu suất thấp hơn so với các pin quang điện silic nhưng lại có khả năng hoạt động ở nhiệt độ cao hơn, đến 150 độ C.

Đây la phương pháp thu năng lượng mặt trời đơn giản nhất, do đó cũng phổ biến nhất. Nhược điểm chính của pin quang điện là :

– Hiệu suất thấp do chỉ sử dụng được một phần của phổ ánh sang nhìn thấy được, chiếm khỏang 40% tổng năng lượng. Do đó mà hiệu suất của các pin quang điện hiện nay chỉ đạt từ 7,5% đến 18%.

– Các phần tử bán dẫn tạo nên Pin quang điện không chịu nổi năng lượng quang và nhiệt tập trung (giới hạn 120 độ C + 24.000 lux / mét vuông) nên không thể nâng hiệu suất biến năng lên cao hơn 200 W / mét vuông bằng các biện pháp hội tụ. Ngoài ra Pin quang điện còn bị phong hóa, hư hỏng rất nhanh khi đến gần ngưỡng giới hạn này.

Mẫu nhà máy Pin quang điện “kinh điển”

 

– Trời âm u, trong khi các tia vùng tử ngoại và hồng ngoại vẫn đâm xuyên mạnh xuống mặt đất thì các tia nhìn thấy được suy giảm tệ hại, có thể chỉ còn 10%, hiệu ứng phát điện bị đình trệ một cách phi l‎‎ý.

– Ban đêm không có ánh sang mặt trời nhìn thấy được dù các tia hồng ngoại vẫn rất mạnh làm cho pin quang điện không có khả năng phát điện ban đêm. Đây cũng là nhược điểm vật l‎ý rất căn bản gây trở ngại cho việc khai thác lợi ích từ năng lượng mặt trời bằng Pin quang điện.

– Nhà máy điện dùng Pin quang điện gắn liền với một hệ thống ắc quy tích điện khổng lồ nếu muốn phát điện 24/7. Bản thân pin quang điện thì không gây ô nhiễm nhưng thứ “đi kèm” này là siêu độc hại, một nguồn ô nhiễm khủng khiếp không dễ xử l‎ý, đắt tiền và hay hỏng.

– Mọi cố gắng mở rộng phổ quang học cho Pin mặt trời (để nâng hiệu suất Pin quang điện) được nghiên cứu gần 25 năm nay chưa đem lại một kết quả thực tiễn nào.

2/. Hội tụ quang năng cho máy phát nhiệt điện – turbine khí.

 

– Phương án khá hay, nó tận dụng được tòan phổ quang học mặt trời, có thể phát điện cả một phần công suất vào ban đêm nhờ vào nền bức xạ hồng ngoại. Tuy nhiên chúng cũng vướng phải các nhược điểm không thể tránh khỏi :

– Hiệu suất của động cơ Turbine khí (Gas turbine engine) là không cao (dưới 23% công suất động lực học) nên lãng phí rất lớn phần năng lượng chủ đạo. Nói chung, phương pháp hội tụ quang năng cho máy phát nhiệt điện – turbine khí không hơn gì pin mặt trời.

Nhà máy Hội tụ quang năng – Turbine khí ở Tây Ban Nha

 

C/. Động cơ Stirling (Stirling Engine)

 

– Động cơ Stirling là loại động cơ nhiệt đốt ngoài sử dụng piston. Nó đã được sáng chế và phát triển bởi Reverend Dr Robert Stirling năm 1816.

 

– Đây là loại động cơ nhiệt có hiệu suất cao, có thể đạt tới 50% đến 80% hiệu suất lý tưởng của chu trình nhiệt động lực học thuận nghịch (như chu trình Carnot) trong việc chuyển hóa nhiệt năng thành công năng, chỉ bị mất mát do ma sát và giới hạn của vật liệu. Động cơ này cũng hoạt động được trên nhiều nguồn nhiệt, từ năng lượng Mặt Trời, phản ứng hóa học đến phản ứng hạt nhân.

  • Động cơ Stirling có thể có giá thành cao hơn 45% so với các loại động cơ đốt trong cùng công suất, nhưng nó có những đặc tính thích nghi cho nhiều ứng dụng. Nó có hiệu suất cao hơn hẳn, không ồn, hoạt động ổn định và bền bỉ, không cần bảo dưỡng nhiều, và có thể hoạt động với chênh lệch nhiệt độ giữa nguồn nóng và nguồn lạnh trong dải rộng từ cỡ chục độ C đến hàng nghìn độ C.

– Với giá thành năng lượng đang tăng những năm đầu thế kỷ 21, cùng với lo lắng về sự nóng lên của Trái Đất, các động cơ Stirling đang dần được quan tâm để đưa vào các nhà máy phát điện với năng lượng tái tạo và lĩnh vực hàng không vũ trụ (đề án NASA).

– Động cơ Stirling là thiết bị ưu việt và đặc biệt là cấu tạo đơn giản. Một đầu động cơ được đốt nóng, đầu còn lại làm nguội và công hữu ích được sinh ra. Đây là một động cơ kín không có đường cấp nhiên liệu cũng như đường thải khí. Do đó nó không có tiếng nổ, không thải khí và còn là động cơ tuyệt đối sạch.

– Chừng đó thôi cũng đủ thấy rằng kết hợp hội tụ quang năng + Stirling phát điện là một phương án phi thường, có hiệu suất từ 50% đến 80% so với con số khiêm tốn 18% của Pin quang điện và 23% của Hội tụ – Turbine khí.

Mẫu Stirling – Mặt trời đơn lập

 

Động cơ Stirling – Mẫu chọn

 

– Mẫu động cơ Stirling được chọn là Stirling Alpha, có hai Cylinder (+2 piston) đặt lệch 90 độ là hai phần nóng và phần lạnh của động cơ. Hai tay bien (tay biên / tay dên) đặt chung trên một hệ quay lệch tâm (biên / dên). Đầu nóng tiếp xúc trực tiếp với bộ trao đổi nhiệt; phần lạnh được làm mát bằng đối lưu tự nhiên hay bằng nước.

– Nhiệt năng cung cấp vào phần Cylinder nóng, nguội đến dưới 50 độ C rồi thải ra môi trường (không gây ô nhiễm nhiệt năng). Cylinder nóng nhận nhiệt năng này, kích khởi cho Stirling họat động. Moment quay ở trục bien kéo Alternator ở tốc độ danh định 3000 RPM, phát ra điện xoay chiều 50Hz / 220V, cung cấp trực tiếp cho nhu cầu dân dụng.

– Ổn định tốc độ quay (ở tôc độ 3000 RPM để bảo đảm tần số dòng điện 50 Hz) và ổn áp (220V) sẽ được một bộ phận điện tử theo dõi, điều tiết và hiển thị.

 

D/. Bản vẽ thiết kế mẫu Stirling Engine 3,5 KW

(gồm 12 bản vẽ / 21 hình)

Design 1

Design 2a

Design 2b

Design 3a

Design 3b

Design 4a

Design 4b

Design 5a

Design 5b

Design 6a

Design 6b

Design 7a

Design 7b

Design 8

Design 9a

Design 9b

Design 10a

Design 10b

Design 11

Design 12a

Design 12b

 

E/. Giá thành chế tạo (đơn chiếc) :

F/. Nói thêm

 

– Rõ ràng là hiệu suất thần kỳ của động cơ Stirling cho phép có một sự kết hợp rất phong phú từ các nguồn nhiệt khác mà không chỉ năng lượng mặt trời. Một trong những thứ đó là nhiệt dư của lò đốt rác, nhiệt dư nhà bếp và mũi khoan địa nhiệt.

 

– Một bộ giãn nhiệt – trao đổi nhiệt không phức tạp cho phép chuyển nhiệt lượng của lò đốt rác vào Cylinder nóng của của động cơ Stirling làm nó họat động ở tốc độ ổn định 3000 RPMs, kéo Alternator một đôi cực và phát ra điện xoay chiều 220V / 50 Hz.

 

– Một cách khiêm tốn, Stirling được cho là chuyển khỏang 65% đương lượng nhiệt (tính bằng Kcal) ra điện. Nghĩa là để phát ra công suất 1 KW, Stirling chỉ cần 3,680 Kcal (dưới 40 Kg rác đô thị đốt bằng công nghệ Plasma). Đây là một hiệu suất “khủng”, có thể kích thích việc sử dụng các Stirling phát điện sử dụng ngay nhiệt dư nấu nướng nhà bếp để chuyển thành điện. Điều này sẽ gây một làn sóng cách mạng trong cán cân năng lượng của đất nước, góp phần tước bỏ đặc quyền đặc lợi của ngành điện về tay nhân dân trong thời gian không xa.

March, 28, 2015

——–Wambuakim——–

KỸ THUẬT ĐỘNG CƠ Ô-TÔ XE MÁY KHÔNG NHIÊN LIỆU VÀ CÁCH MẠNG MÔI TRƯỜNG

         I/. Động cơ và sự sống nhân loại :

“Động cơ là công cụ cơ khí, là chế tác đặc biệt của nhân loại, nhằm mục đích biến đổi các dạng năng lượng khác thành năng lượng hữu ích và hữu hướng để phục vụ cho một mục tiêu cơ học nhất định.”

Từ thượng cổ, con người đã biết dùng thuỷ động năng của dòng nước chảy để tạo ra các bờ xe nước nổi tiếng kỳ quan để dẫn thuỷ nhập điền, làm máy giã gạo .v.v… Tiếp theo là hoá năng của hợp chất nitrat, kali sulfur… để làm ra tên lửa dưới dạng pháo thăng thiên, động cơ phản lực 1 thì kỳ diệu. Tên lửa hơi nước chế tạo sau đó không lâu làm tăng ý nghĩa và nhận thức về sự phong phú của năng lượng cho động cơ. Cối xay gió làm sáng danh đảo quốc Hà Lan, tô điểm cho câu chuyện hài “Don Quijotte, nhà quý tộc tài ba xứ Mantra” (Cervantes, Espanã) cũng góp phần tạo nên động cơ turbin khí, tiền thân của các động cơ turbine hiện đại.

 

II/. Động cơ nhiên liệu : bước đột phá :

Sự khám phá ra động cơ hơi nước dùng nhiên liệu than và than đá bởi Denis Papin ở Pháp và Stephenson đưa lên đầu kéo xe lửa tại Anh liền sau đó, đã mở đầu cho cách mạng công nghiệp toàn cầu. Sau đó nhân loại tiến lên chế tạo động cơ đốt trong dùng nhiên liệu lỏng Diesel và động cơ chạy xăng, và các biến tấu nhiên liệu như dầu mazout, hỗn hống than lỏng … và động cơ turbin nhiên liệu lỏng ( dùng dầu phản lực, hỗn hợp ammoniac – oxy lỏng, hỗn hợp hidro – oxy lỏng … ) đã tiếp tục đẩy mạnh chế tác động cơ nhiên liệu.

Có thể nói, động cơ nhiên liệu là bước đột phá lớn của nhân loại, là vị thần Atlas dựng nên thế giới văn minh cơ khí ngày nay.

1/. Ưu điểm của động cơ nhiên liệu :

Động cơ nhiên liệu có các ưu điểm chủ yếu sau đây :

a/. Dễ chế tạo, nguyên lý giản đơn, tường minh, phù hợp với nhiều trình độ cơ học.

b/. Nhiên liệu tương đối phổ biến và vận chuyển khá dễ dàng.

c/. Đầu tư sản xuất tương đối thấp, và ngày càng thấp hơn.

2/. Nhược điểm của động cơ nhiên liệu :

Động cơ nhiên liệu có các nhược điểm chủ yếu sau đây :

a/. Hiệu suất nhiên liệu không cao, lãng phí và tiêu huỷ năng lượng hoá thạch mà thiên nhiên đã tích luỹ hàng nhiều vạn năm.

b/. Chất thải COx, NOx …  từ động cơ dùng nhiên liệu lỏng, dù nhiều hay ít, đều rất độc hại đến môi trường sống, tăng hiệu ứng nhà kính và hầu như không có khả năng kiểm soát.

 

II/. Động cơ không nhiên liệu cho ô-tô và xe máy:

         1/. Nguyên tắc cơ học :

 

  • Động cơ ô-tô xe máy không nhiên liệu dùng năng lượng dãn hơi của khí nén làm cơ chế động lực.
  • Một turbin khí áp thấp dùng năng lượng này tạo thành chuyển động quay, làm cơ năng hữu ích của động cơ ô-tô xe máy không nhiên liệu.

 

2/. Chế tác chính :

a/. Hộp trữ khí áp : Là cơ sở động lực chính, có dung tích 8 lít, chịu được áp lực trên 6 Atm. Đó là một hộp thép dày 1mm, có dạng vận trù, phù hợp với mợi loại hình xe, kiểu dáng trang nhã.

b/. Bộ phối khí áp : Một van điều chỉnh bằng cửa dạng Space (S), ăn liền với bộ phận chỉnh ga xăng. Khi điều chỉnh tay “ga” thì cũng là điều chỉnh đồng loạt van phối khí này.

c/. Động cơ tubine : Gồm 2 phần, gắn liền thành một cơ phận thống nhất :

– Turbine khí:

* Một Stator bằng ống thép một đầu kín, một đầu hở và một lỗ thoát hơi. Lòng ống được gốm hoá với độ bóng rất cao, nên có độ ma sát rất bé.

** Bên trong lòng Stator có turbine 8 cánh bằng vật liệu Nhựa – Ceramic chịu nhiệt độ rất lớn (trên 500 độ C), bền cơ và chịu mài mòn cao. Đầu kín cũng là điểm tựa của cốt turbine, đầu hở là nắp tháo lắp được, có lỗ nhận hơi nén. Khi nhận được hơi có áp, turbine quay để giãn hơi, biến thế năng khí áp thành động năng làm turbine quay. Hơi giãn áp thoát ra theo lỗ thoát hơi trên thân Stator ra ống giảm thanh (Pô air).

– Bộ đồng tốc: Cơ năng giải phóng từ turbine có hiện tượng “giật cục”. Vì mỗi khi cánh turbine vượt qua vị trí miệng ống thoát thì mới mở đường cho hơi giải nén thoát ra với tốc độ của một phản ứng nổ. Do đó mà cơ năng được giải phóng đột ngột gây ra hiện tượng xung cơ học. Bộ đồng tốc có nhiệm vụ tích trữ cơ năng và giải phóng từ từ, xoá bỏ hiện tượng “giật cục” này.

         d/. Bộ hoà cơ : Gồm nhông truyền và bao nhông.

Nhằm gắn lắp phù hợp với mọi kiếu xe, chúng tôi thiết kế đầu ra theo cách truyền động lực vào thẳng bánh xe qua một nhông truyền phụ gắn trực tiếp vào vành chân căm (còn gọi là tambour). Do đó mà mọi kiểu xe máy từ xe số đến xe ga đều gắn ráp cùng một kiểu như nhau, tính phổ dụng (lắp lẫn) rất cao.

 

3/. Ưu nhược điểm của động cơ không nhiên liệu :

*** Động cơ không nhiên liệu có các ưu điểm chủ yếu sau đây :

a/. Hiệu quả môi trường không thể chối cãi.

b/. Lắp ráp dễ dàng và phù hợp với mọi loại xe máy. Chỉ một “nhông”, một bộ gá đơn giản, một động cơ không nhiên liệu, một bộ chia khí áp, một bình chứa khí, và 11 bu – loong, đai ốc. Tất cả những thứ đó tạo cho chiếc xe máy một tính năng kỳ diệu.

c/. Giải quyết bài toán năng lượng một cách triệt để. Qua mẫu thử nghiệm, chỉ với 1.000 ĐVN bơm hơi nén, đã chạy được trung bình 40 Km – 50 Km. Không thể bàn gì hơn.

d/. Không lo khâu phân phối nhiên liệu như động cơ chuyển đổi dùng khí hoá lỏng gặp phải. Ở Việt Nam hiện thời, không ở đâu là không có bơm hơi – vá ép. Đó là những điểm cung cấp năng lượng còn phổ biến hơn cả xăng dầu.

         e/. Không sợ nguy hiểm, cháy nổ như LPG. Dùng khí hoá lỏng luôn luôn phải đối diện với nguy cơ kích nổ khi lưu thông với tốc độ cao, một va chạm có thể phát nổ, dẫn đến chết người. Trong khi đó, động cơ không nhiên liệu tuyệt đối an toàn cháy nổ.

f/. Có thể chế tạo với mọi mức công suất, từ 1 kW đến 16 kW không có gì khó khăn trong chế tạo và đều hoàn toàn khả thi.

g/. Hoàn toàn có khả năng phát triển cho ô – tô. Đây là bước tất yếu mà chúng ta phải nghĩ đến

***Nhược điểm của động cơ không nhiên liệu:

a/. Có khó khăn khi lắp cho xe “ga” bánh nhỏ. Cần có tập huấn kỹ cho thợ lắp ráp.

b/. Bình đựng khí áp không thể quá lớn, ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ và độ an toàn vận hành nên chỉ chạy 40 – 50 Km là phải tiếp khí áp. Điều này có thể giải quyết bằng bình khí phụ đặt ở một nơi khác trên xe máy. Ô – tô thì không thành vấn đề.

 

III/. Qui trình công nghệ sản xuất động cơ không nhiên liệu:

 

Tóm lược, qui trình công nghệ sản xuất động cơ không nhiên liệu đi theo 06 bước chính:

1/. Chế tạo động cơ : Là bước tốn nhiều thì giờ và nhân lực, cần phải quan tâm. Chủ yếu bước này có 03 phân đoạn sau :

a/. Chế tạo Stator : Cắt ống, chọt lỗ đường thoát, xoáy, ghép bệ vòng bi, gốm hoá.

b/. Đúc turbine bằng máy đúc áp lực khuôn nóng với nhựa – composit.

c/. Lắp bộ đồng tốc và gắn vào động cơ.

2/. Chế tạo bộ chia khí : theo hình thức van xoay.

3/. Chế tạo bộ gá : theo mẫu cho sẵn, vận trù cho mọi loại xe.

4/. Chế tạo bình chứa hơi nén : hình thức như bình đựng phụ tùng của xe Bonus. Một chỗ có van nạp khí, bên kia là ống hơi đi tới bộ chia khí.

5/. Nhông và xích : nhông 27 / 18, xích KDK202 thông thường, 0,8 m.

6/. Bu – loong và đai ốc : dùng của LIDOVIS.

Quy trình này có ưu điểm rất lớn :

2/. Đơn giản, tường minh, phù hợp với mọi trình độ công nghiệp từ thủ công đến tự động.

3/. Không có sức căng quá lớn về mặt bằng do có thể đặt gia công nhiều chi tiết.

 

         IV/. Đầu tư máy móc : (tổng đầu tư dự kiến : 500.000 EURO)

 

Không kể đến phương tiện vận chuyển và nhà xưởng, thì những khoản mục đầu tư máy móc cho 3000 động cơ ô-tô xe máy không nhiên liệu / tháng là :

 

Chủng loại Số lượng Đơn giá

(triệu VNĐ)

Thành tiền

(triệu VNĐ)

1/. Máy tiện (lớn nhỏ) 6 200 1200
2/. Máy phay – chọt lỗ 4 300 1200
3/. Máy xoáy – đánh bóng 6 120 720
4/. Máy gốm hoá 1 300 300
5/. Máy đúc nhựa áp lực 4 120 480
6/. Máy nung – tôi 2 180 360
7/. Máy dập 5 250 1250
8/. Máy cắt gọt đa năng 2 250 500
9/. Khuôn nhựa và khuôn dập 11 95 1045
10/. Máy sơn tĩnh điện & sấy 1 450 450
11/. Máy mạ Ni – Cr –  Zn (kẽm) 1 360 360
12/. Máy sấy điện – hồng ngoại 1 220 220
Tổng cộng 8080

 

V/. Thế mạnh kinh tế – kỹ thuật của động cơ không nhiên liệu:

Công nghệ động cơ không nhiên liệu có những thế mạnh sau đây:

1/. Kích thích, thúc đẩy và vực dậy nền công nghiệp chế tạo máy VN đang thoái trào trước sự xâm nhập mạnh mẽ của hàng cơ khí các nước trong khu vực.

2/. Công nghệ động cơ không nhiên liệu là công nghệ rất mới lạ và có tiềm năng cao. Nhất là các xe chạy trong nhà xưởng, trong khu dân cư, trong thành phố… Có thể phát triển thành xe Buýt, xe taxi không nhiên liệu, là một thế mạnh rất lớn.

3/. Nguyên vật liệu chế tạo động cơ không nhiên liệu là hoàn toàn nội địa, điều chế, thu mua được trong nước và không có bất cứ sức căng xã hội – công nghiệp nào.

4/. Động cơ không nhiên liệu không đòi hỏi đầu tư phương tiện cung cấp năng lượng cho ô – tô xe máy dùng nó, nên có thể triển khai bất cứ thời điểm nào mà không sợ trở ngại xã hội trong lĩnh vực cấp năng.

5/. Động cơ không nhiên liệu dễ dàng phối hợp với động cơ nhiên liệu sẵn có của ô–tô, xe máy nên có thể tạo dòng ô–tô – xe máy lưỡng dung (vừa có nhiên liệu, vừa không nhiên liệu). Điều này làm giảm bớt sức căng tiền vốn vì không phải SX đồng bộ một loại hình ô-tô – xe máy riêng, phù hợp với trình độ và qui mô SX của VN ta hiện nay.

6/. Động cơ không nhiên liệu cứu vãn môi trường các đô thị lớn, có độ tập trung dân số cao và ô-tô xe máy đi lại với khối lượng lớn.

7/. Động cơ không nhiên liệu, qua các thuận lợi kinh tế – kỹ thuật nói trên, sẽ hiệu quả hơn so với bất cứ công nghệ chế tạo động cơ mang tính môi trường nào khác trên thế giới, đáp ứng được một mảng nhu cầu rất lớn của VN, hấp dẫn hơn bất cứ hướng đầu tư công nghệ xây dựng nào. Mãi lực và khả năng cạnh tranh của nó là không thể lường trước được.

 

         VI/. Thay lời kết luận :

 

Nhân loại đang đứng trước nguy cơ mất cân bằng sinh thái, hiểm hoạ môi trường và sức căng phát triển. Việc xuất hiện công nghệ động cơ không nhiên liệu góp phần trong cuộc đấu tranh một mất một còn để bảo vệ an toàn sinh thái, giữ gìn môi trường sống và cải thiện kinh tế, giữ gìn bầu sinh quyển và tầng ô – zôn.

Không dừng lại ở đó, với tính năng ưu việt và giá thành hợp lý, chắc chắn động cơ không nhiên liệu có chỗ đứng rất cao trong ngành chế tạo động cơ ô-tô xe máy nội thị trong khu vực và thế giới. Nó đem lại việc làm, lợi nhuận công nghiệp và khả năng xuất khẩu.

Ngày 31/3/2001.

Wambuakim

  • Ghi chú : 11 bản vẽ kỹ thuật và 3 bản hướng dẫn nguyên nhiên liệu và công nghệ hỗ trợ đã thông qua, trở thành tài sản hợp pháp của liên minh CTy và sẽ chỉ kèm theo Know How Công Nghệ.
  • Pháp lý : Việc đăng ký Patent hợp pháp đã được đưa đến Cục Sở Hữu Trí Tuệ VN, và 03 văn phòng Patent ngoại quốc từ ngày 01/07/2004.
  • Thực hiện :

        “  Việc thử nghiệm đã được liên minh DOMICO – EURASIA tiến hành từ 01/6/2001 đến 01/11/2004, theo đúng mọi điều kiện và tiêu chuẩn động học Châu Âu.”

Ngày 14/11/2004

Đại Diện EURASIA DEVELOPMENT GmbH

FalkstraBe 73-77 D 47058 Duisburg.

Nguyễn Quý Dr.                                                                                       (ký tên)