NGOẠI BÌ HỌC PHẦN III (DA HỌC III, tiếp theo và hết)

NGOẠI BÌ HỌC III (DA HỌC III) 

(Tiếp theo phần II và hết)

6/. Nhóm bệnh ngoại bì do nội tiết – dinh dưỡng

 

6a/. Mụn, ghẻ, ung nhọt, mụn bọc (đinh râu).

 

– Mụn (mụn cám, mụn thịt hay mụn mủ) thường xuất hiện trên mặt thậm chí lưng, đùi … ở tuổi dậy thì, nhưng có những thể tạng mọc mụn ở tuổi rất muộn sau dậy thì. Nguyên nhân đến từ hoạt động nội tiết sinh dục và sinh lý có vấn đề. Mụn không nguy hiểm nhưng gây ngứa ngáy, khó chịu và làm mất mỹ quan, mất tự tin giao tiếp.

 

– Ghẻ và ghẻ lở, ung nhọt … thường xuất hiện ở tuổi thiếu niên – nhi đồng nhưng cũng không thiếu ở thanh niên và trung niên, người lớn tuổi. Nguyên nhân chính là do biến dưỡng, mất cân bằng dinh dưỡng và nội tiết.

 

– Đinh râu không chỉ là một bệnh đơn thuần của râu. Đinh râu khác với bệnh nấm tóc. nó là một bệnh thường xảy ra ở ngay chân của những sợi râu, ban đầu chỉ nhỏ như một cái đinh, nên cổ xưa gọi là đinh râu, tuy nhiên mỗi khi có bội nhiễm gia tăng nó có thể lớn bằng hạt bắp hay hạt đậu xanh, đặc biệt thì lớn như trái chanh. Đinh râu được gọi là nhọt độc, rất độc, vì khi nặn, bóp vỡ, bọc đinh râu sẽ gây bội nhiễm, trở thành nhiễm trùng máu rất nguy hiểm, thậm chí tử vong..

 

6b/. Acanthosis nigricans

Acanthosis nigricans thường kết hợp với điều kiện làm tăng mức insulin, chẳng hạn như bệnh tiểu đường loại 2 hoặc là thừa cân, thừa mỡ dười da. Nếu mức insulin quá cao, thêm insulin có thể kích hoạt hoạt động trong các tế bào da. Từ đó các phản ứng gây ngứa ngáy, nổi mẩn, phát ban giống như dị ứng da nhưng trị hoài không hết.

 

6c/. Ra mồ hôi và mùi hôi cơ thể :

Thay đổi bất thường trong mồ hôi – hoặc đổ mồ hôi quá nhiều (hyperhidrosis) hoặc đổ mồ hôi ít hoặc không có mồ hôi (anhidrosis) – có thể gây ra vấn đề trong thẩm mỹ, sinh hoạt, giao tiếp và làm việc. Triệu chứng thường xuất hiện ở các giai đoạn sinh trưởng và biến dưỡng đặc thù, dưới tác động của các kích thích tố sinh trưởng, các enzime từ các tuyến nội tiết (đặc biệt tuyến giáp, tuyến mật, tuyến thượng thận, tinh hoàn, vòi trứng và các tuyến nhầy âm đạo …) gây nên, thường là do bệnh lý nội tiết.

 

6d/. Nám mặt :

Nám mặt có thể diễn ra thành các điểm, các vệt, các đám da thẫm màu làm tổn hại mỹ quan nghiêm trọng. Nám mặt do nguyên nhân nội tiết, do nhiễm độc cơ thể, do mất cân bằng dinh dưỡng, do sang chấn tâm lý hoặc do một vài hay tất cả các nguyên nhân đó gây ra.

 

6e/.Hội chứng viêm da dày sừng :

Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân, có nguyên nhân dinh dưỡng thiếu và mất cân bằng dưỡng chất, khoáng chất và vitamin, ngoài ra còn có tác động phụ là do nhiễm vi nấm mốc trên thực phẩm (gạo thóc, rau củ), thiếu nước sạch ăn uống và sinh hoạt, do thiếu kém vệ sinh cá nhân. Bệnh có thể gây chết nhiều người và có thể lan thành dịch trong các vùng nông thôn, miền núi (Quảng Ngãi 2016 và 2017).

 

7/. Nhóm bệnh ngoại bì do di truyền – Gen

 

7a/. Bệnh á sừng:

Á sừng là trạng thái lớp sừng chuyển hóa dở dang, tế bào còn nhân và nguyên sinh, chưa chuyển hóa hết thành sừng. Lớp sừng chuyển hóa dở dang gọi là lớp sừng non, sừng bở, sừng tạp, kém chất lượng. Bệnh không nguy hại đến sức khỏe nhưng lại gây nhiều phiền toái cho sinh hoạt hàng ngày.là một bệnh viêm da thể tạng dị ứng, là một bệnh ngoài da khá phổ biến, có thể gặp ở nhiều vị trí da khác nhau, nhưng rõ rệt nhất là ở các đầu ngón tay, chân, gót chân. Lớp da ở những vị trí này thường khô ráp, róc da, nứt nẻ gây đau đớn.

Nguyên nhân gây á sừng đến nay vẫn chưa xác định, song nhiều nhà khoa học cho rằng đó là do yếu tố di truyền trong gia đình hoặc thói quen dinh dưỡng thiếu cân đối từ bé. Thực tế cho thấy, đại đa số bị mắc bệnh đều do ăn ít rau quả. Thiếu vitamin nhất là A, C, D, E… sẽ ảnh hưởng đến chất lượng lớp sừng.

Đây là bệnh viêm nhiễm mạn tính, khi cơ thể có sự thay đổi về nội tiết có thể tự khỏi như đến tuổi dậy thì, mang thai, mãn kinh…

 

7b/. Bệnh bạch biến

Bạch biến là bệnh rối loạn sắc tố dưới da có liên quan đến gen. Biểu hiện của bệnh là những đốm da bị mất sắc tố chuyển sang màu trắng hoặc đốm nâu xen kẽ, xuất hiện ở các vị trí trên cơ thể như cổ, lưng, mặt, vùng sinh dục,…

 

Hiện nay vẫn chưa có bất kì phương pháp nào có thể điều trị bệnh bạch biến, chỉ có thể dùng thuốc hạn chế tình trạng bạch biến lan rộng. Bệnh bạch biến không gây tổn thương gì, nên Tây Y khuyên người bệnh an tâm chung sống hòa bình với bạch biến.

 

7c/. EB – Ly thượng bì (bẩm sinh).

Bệnh ly thượng bì bỏng nước bẩm sinh (hay Epidermolysis Bullosa – EB) là một bệnh di truyền (di truyền lặn hoặc di truyền trội) hiếm gặp trên thế giới cũng như Việt Nam. Bản thân bệnh nhi bị ly thượng bì bỏng nước khi chào đời đã chứa trong mình một liên kết đặc biệt khiến lớp da trên cùng và những lớp da tiếp theo không dính nhau.

Việc chăm sóc trẻ bị bệnh này vô cùng vất vả vì khi bị bệnh, da các bé rất mỏng manh, trẻ có thể tự làm mình bị thương, thậm chí da bé cũng bị bong tróc, lở loét khi đóng bỉm hoặc được bế, bò hay đi. Chăm sóc bình thường sẽ dính, lột da ra vì thế phải dùng một loại gạc chống dính chuyên dụng để băng bó vết thương.

Một số bé bị nặng, tổn thương cả đường tiêu hóa, nên ăn uống rất khó, dinh dưỡng kém, cần được cung cấp thức ăn giàu năng lượng, ăn đồ dễ tiêu và lạnh, để giúp cải thiện sức khỏe, chống lại các nhiễm khuẩn kèm theo.

Với Tây Y, EB hiện chưa có khả năng chữa trị, những cách điều trị như ghép tủy xương hay điều trị gen mới chỉ đang trong quá trình nghiên cứu. Vì thế, trước mắt quan trọng là dùng những phương pháp chăm sóc đặc biệt để giảm thiểu đau đớn và biến chứng gây tàn phế ở trẻ.

Phương pháp điều trị chủ yếu hiện nay chỉ là hỗ trợ băng bó đúng cách, cung cấp đủ chất dinh dưỡng, tránh nhiễm trùng, tránh di chứng sẹo… mà thôi.

 

8/. Nhóm bệnh ngoại bì do nguyên nhân đặc biệt

 

8a/. Bệnh ngứa điên do prion và viroid : Đây là nguyên nhân gây bệnh nguy hiểm hơn cả AIDS nhưng Y học VN còn rất mù mờ và chưa có nhận thức rõ ràng về nó.

 

– Prion viết tắt từ infection protein – có nghĩa là protein bị nhiễm độc hay bị đột biến là những tác nhân lây nhiễm nhỏ bé nhất mà y học từng biết đến, chúng nhỏ hơn virut tới 100 lần. Chúng không phải là các virut hay vi khuẩn mà là một cấu trúc vi sinh vật kiểu mới có dạng các protein đột biến. Bản chất của prion chưa được chứng minh một cách chắc chắn, là một hiện tượng mới vượt ra ngoài hiểu biết thông thường.

 

– Viroid là những phân tử RNA rất nhỏ (200-400 nucleotide), dạng que có mức độ cấu trúc bậc hai cao. Chúng không có capsid và vỏ bao (envelope) và chỉ chứa một phân tử acid nucleic đơn.

 

Đầu tiên, chúng tạo ra các cơn ngứa điên cuồng, bực bội vô cớ và rối loạn giấc ngủ.

Thời gian ngắn sau đó, cùng với mức độ tổn thương ngày càng trầm trọng của não, tình trạng bệnh lý ngày càng tồi tệ, người bệnh mất trí nhớ, đi lại khó khăn rồi liệt hoàn toàn.

Cuối cùng hệ miễn dịch suy sụp nhanh chóng,đàn ông và phụ nữ sẽ bị chứng vô sinh cùng với bị phá hoại nhiều cơ quan nội tạng khác như gan, thận, tim và nhất là não.

Trong tất cả các trường hợp này, kết cục cuối cùng sẽ là cái chết.

 

8b/. Polyp da: Xuất hiện hình thái tương tự như một vết bỏng nhưng đặc, dai hơn, polyp da sống chung hòa bình với con người khi kích thước của nó D < 10 mm. Tuy nhiên nếu kích thước của nó đủ lớn (hoặc bị tấn công cơ học mạnh như nạo, xén, cắt bị bỏ sót v.v…) thì polyp lập tức chuyển biến thành ung thư (ác tính) trong thời gian khá ngắn.

Tuy nhiên, một điều may mắn là combo capsaicin dễ dàng làm tiêu polyp da trong thời gian không lâu.

 

8c/. Ung thư da : Ung thư da gồm có hai loại: Melanoma và không melanoma. Melanoma là trường hợp nguy hiểm nhất nhưng cũng là trường hợp ít gặp nhất trong ung thư da. Ung thư da không melanoma chủ yếu có hai loại thường gặp là carcinoma tế bào đáy và carcinoma tế bào vảy. Ung thư da là loại ung thư thường gặp nhất, nhiều hơn tất cả các loại ung thư khác cộng lại.

Có thể làm giảm nguy cơ ung thư da bằng cách hạn chế hoặc tránh tiếp xúc với bức xạ tia cực tím (UV). Kiểm tra da cho những thay đổi đáng ngờ có thể giúp phát hiện ung thư da ở giai đoạn sớm nhất.

 

8d/. Ung thư tế bào vảy (SCC)

Ung thư tế bào vảy hiếm khi gây ra vấn đề, an toàn hơn nữa nếu được chẩn đoán và điều trị sớm. Nếu không điều trị, ung thư biểu mô tế bào vảy có thể phát triển lớn, lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể, gây biến chứng nghiêm trọng.

 

8d/. Xơ cứng bì

Xơ cứng bì là một nhóm hiếm, bệnh tiến triển có liên quan đến việc làm cứng và thắt chặt của da và mô liên kết – các sợi cung cấp khuôn và hỗ trợ cho cơ thể.

 

9/. Các tổ hợp bệnh ngoài da

Các bệnh ngoài da thường diễn tiến với các tổ hợp của vài loại bệnh da cùng lúc (xem C/ I), thường là có cả nguyên phát hay bội nhiễm và được gọi là combo bệnh lý. Ví dụ vẩy nến – Prion, á sừng – Viroic, hay Eczema – nấm da, vẩy nến – á sừng v.v… Việc chỉ định bệnh kiểu “một chiều” sẽ làm cho việc chữa trị (theo kiểu trị triệu chứng) diễn ra dằng dai không bao giờ dứt, gây tổn hại nội tạng (gan, thận, mật …) và các tuyến nội tiết, gây sưng, xơ cứng và thoái hóa khớp v.v… rất nguy hiểm và để lại nhiều di chứng.

 

III/. Lưu ý khi chữa trị các bệnh ngoài da

 

Các bệnh ngoài da xuất hiện ngày càng nhiều và rất phổ biến. Mỗi người đều có thể đứng trước nguy cơ mắc phải các loại bệnh này, vì thế cần có biện pháp phòng chống hiệu quả. Khi mắc bệnh cần được khám và điều trị kịp thời. Với mỗi loại bệnh khác nhau sẽ sử dụng các loại thuốc phù hợp để điều trị. Bên cạnh đó, người bệnh cần kết hợp thực hiện các biện pháp hỗ trợ điều trị. Đối với tất cả các loại bệnh ngoài da khi chữa trị cần tuân thủ theo các yêu cầu sau:

– Vệ sinh sạch sẽ cho da mỗi ngày để loại vỏ vi khuẩn, nấm, virut gây bệnh

– Không gãi hay tác động mạnh lên vùng da bị tổn thương để tránh gây viêm nhiễm, thương tổn nặng thêm

– Mặc quần áo thoáng mát, tránh gò bó gây cảm giác khó chịu và tổn thương cho da bị bệnh.

– Xác định đúng nguyên nhân gây bệnh, từ đó xây dựng phác đồ điệu trị hiện quả và chính xác.

– Kiên trì và nghiêm túc theo đúng dược trình, không bỏ dở nửa chừng, không nản chí, giữ tinh thần thoải mái lạc quan.

– Kết hợp chữa trị bằng dược pháp với thể dục thể thao nhẹ nếu có thể được.

– Thực hiện chế độ ăn uống hợp lý gồm tăng cường bổ sung các thực phẩm chứa nhiều vitamin như rau quả tươi để tăng sức đề kháng và thanh nhiệt cơ thể. Đồng thời tránh ăn các loại đồ ăn cay nóng, uống quá nhiều rượu bia và các chất kích thích, có thể khiến cho tình trạng bệnh xấu đi.

 

       C/. Dược phương trị bệnh ngoài da Wambuakim

 

I/. Nhận định :

 

Các bệnh ngoài da thường không đi riêng lẻ, mà các loại bệnh như Lupus ban đỏ, vảy nến, chàm Ezema, ban siêu vi, dị ứng phát ban.v.v… thường đi chung với nhau.

 

Theo luận chứng Y Dược Học Lượng Tử thì bệnh da thường xuyên tác hại như là một synthetic bệnh học.

 

Nghĩa là nếu chữa theo trịệu chúng, khi hết “cái này” (bệnh chứng cụ thể) thì “cái kia” (bệnh chứng cụ thể có liên quan) lại nổi lên, liên miên dây dưa không dứt. Do đó mà Đông – Tây Y gần như bó tay với các bệnh ngoài da thể nặng.

 

Phương pháp luận trị liệu của WambuakimDiệt Nguyên Nhân Gây Bệnh, nên phải xác định rõ các bệnh căn này rồi dựng nên dược trình hữu hiệu nhất với bệnh căn ấy (trong đó viêm cầu thận, thậm chí suy thận chỉ là triệu chứng của bệnh căn này).

 

Ví dụ để hiểu rõ hơn, một cơn mưa hàng vạn mét khối nước cũng không làm đầy được chai nước, nhưng chỉ một ca nước ĐỔ ĐÚNG CHỖ lại làm được.

 

II/. Tổng quan :

 

Dược phương trị liệu các bệnh về da của VNBLOOD bao gồm :

 

Dược trình 1/.Giải độc cơ thể, giải độc tế bào, tích cực giảm mỡ máu, mỡ nội tạng (gan, thận, mật, tụy tạng …), mỡ dưới da nếu cần. Cường kích hệ đề kháng + hệ phản vệ.

 

Dược trình 2/. Ưu tiên diệt Prion và viroid + chống dị ứng. Kích khởi hệ thích nghi và hệ đồng hóa – dị hóa vào mục tiêu cụ thể. Phương thức dược học chính là  thoát ly hệ miễn dịch :

 

a/. Đánh dấu ngoại bào xâm thực.

 

b/. Dẫn dắt hệ đề kháng và hệ phản vệ tiêu diệt tác nhân ngoại lai.

 

c/. Đánh thức bán hệ dị hóa để tống độc tố và tác nhân ngoại lai ra các đường đào thải tiêu hóa, tiết niệu và bài tiết.

 

Dược trình 3/. Sử dụng combo phục hồi sửa chữa làn da trong suốt quá trình trị liệu. Trong đó combo fucid tác dụng đến lớp da thứ 3, combo capsaicin tác dụng đến các tầng da sâu hơn để có hiệu quả phục hồi da cao nhất.

Các combo DHA, Lactobacillus Enzime tích cực bổ sung và cân bằng dinh dưỡng, thúc đẩy tái tạo da.

 

Dược trình 4/.Sau khi có kết quả ổn định thì củng cố hoạt động tự vệ của cơ thể, phục hồi các hệ tự vệ đã đường cường hóa quay trở về mức độ trung bình vốn có. Dùng các bài thuốc “nhắc” để bảo đảm không tái phát.

 

Về lý tưởng thì chỉ 4 dược trình, nhưng có thể một trong 4 hoặc tất cả các dược trình phải lập lại cho đến khi đạt yêu cầu trị liệu mới sử dụng dược trình tiếp theo. Thời hiệu thông thường của mỗi dược trình là 16 ngày đến 1 tháng.

 

06 / 6 / 2016

Wambuakim

 

TẨY RỬA DẦU MỠ VÀ GỈ CHO NGÀNH MẠ VÀ SƠN PHỦ / TRÁNG

SỢ LƯỢC VỀ YÊU CẦU BỀ MẶT

CỦA NGÀNH MẠ + SƠN PHỦ + TRÁNG KIM LOẠI.

– Mạ điện dùng phản ứng điện di hay điện hóa Faraday, kết tủa kim loại cần mạ lên bề mặt vật mạ (gọi là Obj). Khi bề mặt vật mạ không được tẩy sạch dầu mỡ (do quá trình gia công cơ khí để lại) và gỉ (do lưu kho, xâm thực hóa học, độ ẩm, nước mưa v.v… trước khi mạ) thì phản ứng điện di / điện hóa diễn ra không hoàn toàn. Lực liên kết bề mặt kém nên lớp mạ chóng bị bong tróc, thậm chí bong tróc ngay trong quá trình mạ.

– Sơn phủ / tráng dùng liên kết cơ lý, tạo một lớp màng phủ trên bề mặt đối tượng. Lớp màng này có thể là sơn (sơn lỏng thông thường, sơn tĩnh điện dạng lỏng kiểu “nhúng”, sơn tĩnh điện dạng bột), phun gốm plasma, tráng men và / hay nhúng kim loại nóng. Bề mặt vật sơn phủ – tráng không sạch dầu và gỉ sẽ tạo các điểm / mảng rỗ, tạo điều kiện bong tróc, vỡ gẫy lớp sơn – phủ – tráng bề mặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sản phẩm.

Tẩy rửa – vần đề nền tảng của nhiều vấn đề.

Mạ điện / sơn phủ – tráng (trong đó rất quan trọng đối với sơn tĩnh điện) vv.. thì độ sạch bề mặt là rất quan trọng. Tẩy rửa phải được thực hiện tốt và phải hoàn tất trước khi mạ, phun sơn hay nhúng (với sơn tỉnh điện “nhúng” zirconium hay chromium hoặc phun ceramic-plasma / tráng men) và trước phosphate-hóa (hay manganat-hóa hoặc magienat-hóa với sơn tĩnh điện “bột” hoặc mạ kẽm nóng). Nói một cách khác, qui trình tẩy sửa quyết định sự thành công của ngành mạ điện / sơn phủ – tráng.

Qui trình tẩy rửa bề mặt cổ điển.

Vài trăm năm tồn tại của ngành mạ điện / sơn phủ – tráng đã hình thành một qui trình tẩy rửa (tên gọi mỹ miều là xử lý bề mặt). Qui trình hoàn chỉnh (thường xuyên bị cắt bớt) bao gồm 7 bước:

1- Thấm ướt bề mặt : tạo điều kiện tiếp xúc tốt giữa bề mặt Obj và các chất tẩy rửa.

2- Tẩy rửa bằng dung môi : (thường dùng acid nồng độ cao cho rẻ tiền) nhằm hòa tan / đánh bật các chất bám / mảng bám trên bề mặt Obj, tạo điều kiện cho các bước tiếp theo.

3- Trung hòa bề mặt bằng nước hoặc có hóa chất.

4- Tẩy rửa bằng xà phòng / chất kiềm. Mục tiêu là phá, bóc dầu mỡ còn sót lại trên bề mặt Obj. Đặc biệt là dầu mỡ tạo lớp ngăn điện hóa đối với mạ điện và sơn tĩnh điện nên bước tẩy dầu (mỡ) là rất quan trọng. Ở VN thì bước này thường được kết hợp với xô chậu, bàn chải và vô số thứ linh tinh khác. Tuy nhiên những vị trí “hiểm” của Obj có cấu tạo phức tạp, ngóc ngách hay ống sâu thì đều … lờ đi vì bó tay.

5- Trung hòa bề mặt bằng nước.

6- Tẩy rửa bằng acide : nhằm tẩy sạch các vết bám của silic, của carbone và gỉ, đặc biệt đối với kim loại đen và sắt carbone.

7- Trung hòa bề mặt bằng nước / sấy khô.

Qui trình 7 bước này để lại hậu quả môi trường nặng nề vì các dư chất hóa học mang theo kim loại nặng liên tục thải vào môi trường, mà lại có hiệu quả khá kém. Tuy nhiên nó vẫn được dùng phổ biến vì … không có cách nào khác.

Qui trình Wambuakim tẩy rửa bề mặt : xanh & hiện đại.

Qui trình Wambuakim (còn gọi là qui trình 7 in 1) sử dụng :

–          Nước muối là chất thấm ướt bề mặt.

–          Siêu âm động lực tác động lên bề mặt để bóc tách mảng bám.

–          Phản ứng điện hóa tạo kiềm bề mặt để tẩy dầu mỡ.

–          Phản ứng điện hóa tạo acide bề mặt để tẩy gỉ.

–          Phản ứng điện hóa thuận nghịch để trung hòa bề mặt.

–          Phun sương nước để loại bỏ muối dư.

Qui trình Wambuakim đã được sử dụng ở CTy Cơ Khí Phương Nam, Q9, TP HCM (1998); CTy Cơ Khí Hợp Nhất (Vĩnh Viễn, Q10 TP HCM (2000); CTy Rạng Đông, Thủ Thừa, Long An (2001); CTy Sơn Tĩnh điện Nhật Hạ, KCN Tân Bình (2004); CTy Sơn Tĩnh điện Đồng Tâm, Nguyễn Văn Quá, Tân Bình (2005); CTy lắp ráp Ô Tô Sài Gòn SAGACO (2007) và một số CTy khác.

Phân tích kỹ thuật :

1/. Vật mạ Obj nối điện được nhúng vào bồn chứa nước muối ăn NaCl / nH2O có bố trí điện cực. Một dòng điện xoay chiều trong vài giây làm cho bề mặt Obj vật mạ phóng xuất khí H2 và O2, một lượng nước Javel NaClO có hoạt tính bề mặt và tẩy màu rất cao được tạo ra, tấm ướt và tẩy sơ bộ bề mặt Obj.

2/. Cùng lúc, siêu âm động lực tần số 27 KHz (đến 43 KHz) liên tục tác động trên bề mặt Obj trong suốt quá trình tẩy rửa, bóc tách tất cả các vật chất đã phân ly trong qui trình kim_techno.

3/. Dòng điện một chiều với cực (-) là Obj được cấp trong thời gian thích hợp. Phản ứng Ion tạo kiềm trên bề mặt Obj kết hợp với bọt khí và siêu âm phân hóa và tống dầu mỡ khỏi bề mặt Obj.

NaCl   —>   Na+  +  Cl-

Na+   +  H2O  —>  NaOH + ½ H2 /^

(hidro thoát ra ở âm cực / Obj và oxi thoát ra ở dương cực bố trí trên thành bồn chứa).

4/. Dòng điện đảo cực, phản ứng điện hóa tạo Chlohidric acide trên bề mặt, trung hòa kiềm, sau đó đánh tan gỉ sét.

Cl-   +  H2O  —>  HCl + O2 /^

(oxi thoát ra ở dương cực / Obj và hidro thoát ra ở âm cực bố trí trên thành bồn chứa).

5/. Dòng điện xoay chiều lại được cấp, trung hòa ngay acid dư + lớp ferrate xốp được tạo ra. Nếu mục tiêu là mạ điện thì không cần mục (5) này. Obj được nhấc khỏi bồn tẩy rửa. Nước phun dạng sương đẩy trôi lượng muối dư bề mặt Obj.

Quá trình làm khô sau đó hoàn tất quá trình tẩy rửa.

Biểu hiện :

–          Vật tẩy được khử bỏ từ dầu mỡ đến gỉ sét.

–          Bề mặt được lớp ferrate xốp màu xám bảo vệ nên không bị tái gỉ và tạo điều kiện cho sơn tĩnh điện bám chắc.

Hiệu quả kinh tế – kỹ thuật :

–          Gọn nhẹ : Chỉ 1 bồn tẩy rửa duy nhất, không rườm rà như qui trình 7 bước. Riêng đối với sơn tĩnh điện, qui trình kim_techno còn loại bỏ 3 bước của quá trình phosphate hóa.

–          Không dùng dung môi và các chất tẩy rửa độc hại, qui trình kim_techno an toàn, thân thiện và không gây ô nhiễm môi trường.

–          Có thể tự động hóa hoàn toàn.

–          Chi phí tổng thể rất thấp, khoảng 25% đến 30% so với qui trình cổ điển.

Các khoản mục đầu tư.

1/. Bồn tẩy rửa 7 in 1 : 01

2/. Buồng phun sương nước : 01.

3/. Máy phát siêu âm + phát điện động lực lập trình 5 (đến 7) đề mục : 01.

(Bản chiết tính đầu tư chi tiết, xin các bạn liên lạc riêng)

—————————-

Wambuakim

27 / 7 / 1997

—————————

Update tại CTy Vũ Lân

75 Cầu Bươu, Thanh Trì, Hà Nội

10 / 10 / 2012

 

NGOẠI BÌ HỌC PHẦN II (DA HỌC II, tiếp theo)

NGOẠI BÌ HỌC II (DA HỌC II) 

(Tiếp theo phần I)

4/. Nhóm bệnh ngoại bì do dị ứng

 

4a/. Bệnh chàm :

Nguyên nhân bệnh rất đa dạng và phức tạp, được xác định là do một số tác nhân và yếu tố dễ gây bệnh hình thành như:

Dị ứng với hóa chất trong sinh hoạt, trong nghề nghiệp như xăng dầu, xà phòng, xi măng.

Do nhiễm khuẩn trong khi tiếp xúc với bùn đất, nước bẩn hay gặp nhất là do liên cầu trùng trong thể tổ đỉa nung mủ

Do dị ứng với nhiễm nấm ở kẽ chân

Do thay đổi thời tiết theo mùa

Do ảnh hưởng của ánh sáng và nóng ẩm.

Những yếu tố sau đây có thể thúc đẩy tình trạng bệnh khởi phát hoặc nặng hơn:

+) Yếu tố tại chỗ: chất tẩy rửa, xà phòng, dung môi, giày dép chật, chất liệu da, đổ mồ hôi nhiều…

+) Yếu tố trong không khí: khói thuốc, lông chó mèo, đất bùn, mạt bụi nhà…

+) Nhiễm trùng (tụ cầu vàng)

+) Thực phẩm gây dị ứng: hải sản, trứng, thịt gà, bò, đậu phộng, đậu nành, đồ lên men, tinh bột…

 

4b/. Tổ đỉa: là bệnh dị ứng, rất hay gặp ở tay, tiếng Anh gọi là Pompholyx, hoặc viêm da mụn nước ở lòng bàn tay và bàn chân. Bệnh nhân thường có thể tạng dị ứng và bệnh thường xảy ra sau cơn stress.

Tổ đỉa có tên khoa học là Dysidrose, là một thể đặc biệt của bệnh chàm, khu trú ở lòng bàn tay, bàn chân và rìa các ngón, Bệnh thường gặp ở tuổi từ 20 đến 40, nam nữ có tỷ lệ bằng nhau. Bất kì ai cũng có thể mắc phải bệnh tổ đỉa nếu như thường xuyên lặp lại những thói quen vệ sinh không đúng cách hàng ngày.

 

4c/. Eczema là phản ứng viêm lớp nông của da, cấp tính hoặc mạn tính. Đây là một bệnh ngoài da phổ hiến..sản xuất công nghiệp và trong sinh hoạt càng sử dụng nhiều hóa chất thì bệnh Eczema càng phái triển.

Nguyên nhân gây bệnh Eczéma rất phức tạp, rất khó tìm được nguyên nhân chính. Eczema xảy ra trên một thể tạng đặc biệt, nghĩa là loại cơ thể dễ bị dị ứng với chất này hoặc chất khác mà người khác thì không bị ảnh hưởng gì. Chất gây dị ứng gọi là kháng nguyên dị ứng.

Thông thường có hai loại nguyên nhân:

* Nguyên nhân bên ngoài: Trong môi trường chung quanh có thể có nhiều tác nhân gây bệnh thuộc các yếu tố vật lý, hóa học, thực vật

Ví dụ: ánh sáng mặt trời, sâu bọ, thuốc uống, thuốc bôi…v.v… hoặc có thể do hóa chất dùng trong gia đình như: xà bông, xi măng, dầu mỡ, chất nhuộm, cao su, mỹ phẩm…v.v…

* Nguyên nhân bên trong: Phức tạp và khó xác định hơn như: Rối loạn thần kinh (xúc cảm mạnh, suy nghĩ lo âu, làm việc căng thẳng); rối loạn tiêu hóa (táo bón, viêm đại tràng, giun sán); nội tiết (có mang, tiền mãn kinh, tuổi già v.v…). Trong cơ thể bệnh nhân có lưu hành những chất chuyển hóa dở dang, những chất đạm lạ cũng gây Eczéma.

 

4d/. Nổi mề đay mẩn ngứa: là một bệnh da phổ biến, rất dễ nhận biết nhưng lại khó phát hiện nguyên nhân dù đã làm đầy đủ các xét nghiệm. Có nhiều yếu tố gây bệnh (bên trong, bên ngoài cơ thể, thể tạng) và trên một bệnh nhân, nhiều khi không chỉ có một mà gồm nhiều yếu tố cùng kết hợp.

Bệnh nổi mề đay mẩn ngứa là do thể tạng dị ứng với một số tác nhân từ môi trường bên ngoài như: dị ứng thực phẩm, thời tiết, môi trường ô nhiễm, nguồn nước bẩn, dị ứng thuốc…. Dù là tác nhân gì gây ra nhưng biểu hiện của bệnh khá đặc trưng là gây ngứa da, ngứa bứt dứt khó chịu, sưng phù. Có thể kèm theo một số triệu chứng ít gặp như rối loạn tiêu hóa, suy hô hấp, ra mồ hôi lạnh, tụt huyết áp ….

Thuốc trị bệnh nổi mề đay chủ yếu là các kháng histamin để ngăn chặn phản ứng dị ứng, làm giảm các triệu chứng bệnh. Kèm theo các thuốc như corticoid, kháng sinh dùng trong trường hợp viêm nhiễm.

Trong dân giansử dụng một số thảo dược trị bệnh như: lá khế, lá kinh giới, lá đơn đỏ, ngải cứu …

 

4e/. Dị ứng da: Ngứa, bị dị ứng, nổi mẩn đỏ là một hiện tượng rất hay gặp trong đời sống sinh hoạt. Nguyên nhân có thể do người bệnh ăn phải các thực phẩm dễ gây dị ứng, do thay đổi thời tiết hoặc cũng có thể là dấu hiệu của một số bệnh ngoài da, dị ứng, bệnh nội tạng …

 

Triệu chứng : Ngoài các dấu hiệu chính là ngứa, da thường có vết xước, nổi mẩn đỏ với nhiều hình dạng khác nhau. Người bị dị ứng thường nổi những mẩn đỏ thành vết, đám hoặc sần nề, gồ cao hơn mặt da, ranh giới rõ, tròn hoặc vằn vèo, màu hồng nhạt, ở giữa hơi bạc màu, rắn chắc, có thể xuất hiện khắp người hoặc từng vùng. Nếu càng gãi thì các mẩn đỏ càng rõ hơn và ngứa nhiều hơn.

Các dạng dị ứng phổ biến nhất đó là dị ứng thực phẩm, dị ứng thời tiết, và dị ứng mắt, hay viêm mũi dị ứng.

 

♦ Dị ứng thực phẩm

Dị ứng thực phẩm có thể gặp ở bất cứ ai, ở bất cứ độ tuổi nào. Khi ăn phải nhóm thực phẩm dễ dị ứng, người bệnh sẽ bị nổi mẩn đỏ ngoài da, nổi mề đay, ngứa, sưng đỏ, mạch máu sưng phồng. Ở hệ thống tiêu hóa thì môi, miệng, và cuống họng sưng phồng, đầy bụng , nôn mửa, bụng đau cuộn, tiêu chảy. Ở hệ thống hô hấp thì khó thở, suyễn, khò khè, ho, nghẹt mũi, chảy nước mũi. Ở mỗi người có một biểu hiện khác nhau, có người không xuất hiện đầy đủ các triệu chứng, dị ứng có thể xảy ra ngay khi ăn thực phẩm dị ứng hoặc sau vài giờ, có khi vài ngày sau đó.

Với một số người cảm ứng quá mạnh, chỉ cần ngửi hay sờ mò vào thực phẩm là có thể bị dị ứng. Nếu bạn đã từng bị dị ứng thực phẩm, trước khi ăn bất cứ món lạ nào, nhất là ở tiệm bạn hãy hỏi kỹ về món ăn đó, và nhớ mang theo các thuốc chống dị ứng để phòng trường hợp bất trắc.

 

♦ Dị ứng thời tiết (a).

Người bị dị ứng thời tiết thường có những biểu hiện như ngứa mũi, tai, mắt, miệng, họng, da hoặc trên bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể. Hắt hơi sổ mũi nhiều lần, chảy nước mũi trong, giảm khướu giác, nặng hơn là nghẹt mũi, ho, ù tai, đau họng có quầng thâm, phù nề dưới mi mắt, mệt mỏi, nhức đầu và đôi khi cũng ảnh hưởng đến việc xử lý bộ nhớ của não bộ.

Đặc điểm của người bị dị ứng thời tiết thường là da rất nhậy cảm với sự thay đổi của thời tiết. Do đó khi thời tiết thay đổi từ nóng sang lạnh hoặc ngược lại rất dễ khiến da bị ảnh hưởng.

 

♦ Dị ứng thời tiết (b).

Người bị dị ứng thời tiết nên được ủ ấm trong chăn khi bị ngứa, vì khi đó phần ngứa sẽ được giảm đi, khi cơ thể nóng lên và ra mồ hôi khiến da bớt khô, bớt bị kích ứng. Bên cạnh đó, người bệnh cần hạn chế tắm nước nóng, tăng cường uống nước, ăn hoa quả, ít sử dụng chất kích thích. Trong trường hợp bụi nhà là thủ phạm, cần thường xuyên lau rửa giường, thay ga đệm hàng tuần, dùng quạt gió để giảm độ ẩm trong nhà.

 

♦ Dị ứng hóa chất và hóa mỹ phẩm : các dòng mỹ phẩm thường làm phụ nữ lóa mắt nhưng chúng lại mang đến những kích ứng, dị ứng da gây tổn hại thẩm mỹ, sức khỏe, tâm lý, tiền bạc và thời gian, công việc. Xử lý chúng là một vấn đề không nhỏ.

 

♦ Xử lý dị ứng, nổi mẩn đỏ :

Khi có những biểu hiện dị ứng, nổi mẩn đỏ cần tìm sớm và loại bỏ các yếu tố gây bệnh nếu biết. Nếu đã có tiền sử dị ứng với thực phẩm thì cần loai bỏ các thức ăn, thuốc có thể gây dị ứng. Tránh sử dụng các chất gây kích thích như gia vị, rượu, trà, cafe…trong các trường hơp nặng có thể sử dụng thuốc chống dị ứng nhưng nên tham khảo ý kiến bác sỹ hoặc người có chuyên môn. Trường hợp bị dị ứng nổi mẩn đỏ thường xuyên, lặp lại thì nên khám tại các bác sỹ chuyên khoa, có thể làm thêm xét nghiệm để tìm đúng nguyên nhân và có cách điều trị thích hợp.

 

4f/. Dị ứng nổi mề đay(hay còn gọi là bệnh mề đay) là một hiện tượng rất phổ biến kể cả trẻ em lẫn người lớn. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng này trong đó có thể kể tới một số yếu tố như thời tiết, thức ăn, lông động vật, phấn hoa, côn trùng ….tác động vào cơ thể.

 

Mề đay là một phản ứng viêm của da, có cơ chế phức tạp, trong đó có sự can thiệp của chất trung gian hóa học chính là histamin. Tuy là một bệnh da phổ biến, rất dễ nhận biết nhưng lại khó phát hiện nguyên nhân dù đã làm đầy đủ các xét nghiệm.

 

Người ta phân loại mề đay thành 2 dạng cấp tính và mãn tính.

Dạng cấp tính có biểu hiện đột ngột ở bất cứ vùng nào trên cơ thể làm cho da sần, phù nề, ngứa dữ dội. Cơn xảy ra trong vài phút hoặc vài giờ rồi lặn hoặc có thể từng đợt kế tiếp nhau. Trong cơn mề đay cấp có thể kèm theo sốt cao, nôn mửa, đau quặn bụng, khó thở…

Dạng mề đay mãn tính là hiện tượng mề đay thường kéo dài trên 8 tuần, không kể nhiều hay ít, có khi ngắt quãng nhiều ngày, có thể gặp các dạng khác nhau.

 

Hầu hết hiện tượng mề đay thường có nguyên nhân sâu sa từ chức năng tiêu độc của gan và chức năng bài tiết của thận suy giảm. Để điều trị mề đay tốt nhất là cần loại bỏ yếu tố gây bệnh nếu biết, và cần cho bệnh nhân cách ly với một số thức ăn, thuốc có thể gây dị ứng. Đặc biệt cần tránh các chất kích thích như: gia vị, rượu, trà, cà phê…

Trong trường hợp mề đay mãn tính thường có liên quan tới các bệnh lý bên trong nên bệnh nhân cần đến bác sĩ chuyên khoa khám, làm thêm các xét nghiệm cần thiết để tìm đúng nguyên nhân và có cách điều trị thích hợp.

 

Dị ứng của cơ thể xảy ra khi hệ miễn dịch của một cá nhân phản ứng lại với một chất hiện diện trong môi trường. Dị ứng có thể dẫn đến các vấn đề về hô hấp, đau đầu và kích ứng da. Các dạng dị ứng thường gặp có thể kể đến như dị ứng khi gặp không khí lạnh, dị ứng với sex (thường là dị ứng khi tiếp xúc với tinh dịch), dị ứng với phấn hoa, dị ứng khói thuốc, dị ứng mỹ phẩm, phân ve, khi thay đổi khí hậu hoặc một số ít dị ứng với ánh nắng mặt trời, nước hoa, động vật có vỏ, hải sản và thuốc. Khi bị dị ứng cần tìm nhanh và cách ly với các tác nhân gây dị ứng. Một số trường hợp cần sự can thiệp của thuốc nhưng cần có chỉ định của nhà chuyên môn.

 

5/. Nhóm bệnh ngoại bì do tự miễn

 

5a/. Bệnh vảy nến: có nguồn gốc tự miễn, là một bệnh mãn tính xảy ra khi các tế bào da phát triển quá nhanh chóng, cơ thể không thể lột da tế bào dư thừa này do đó những mảng vảy màu trắng bạc xếp thành nhiều lớp như sáp nến.

Vảy nến là bệnh ngoài da mãn tính điển hình, cần biết những thông tin đúng về bệnh nhằm kịp thời xử lý điều trị bệnh vảy nến tính cực nhất. Căn bệnh này là đề tài được nghiên cứu rất nhiều thập kỷ nhưng cho đến nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân phát sinh cũng như chưa tìm được cách trị bệnh. Vảy nến được lý giải do sự phát triển quá nhanh chóng của tế bào da dẫn đến chồng chéo nhiều lớp tế bào mới cũ. xuất hiện do một số tác nhân gây nên như:

 

– Rối loạn hệ thống miễn dịch,

– Yếu tố di truyền,

– Nhiễm khuẩn,

– Chấn thương thượng bì,

– Ánh sáng, môi trường tác động,

– Yếu tố tinh thần, sang chấn tâm lý…

 

Quá trình phát bệnh xảy ra đột ngột trên một vùng da hay nhiều vùng da cùng lúc gây nên những trấn thương hay gặp như da bong tróc vảy có màu trắng hoặc hồng nhạt, rát da, ngứa da, có thể bị viêm nhiễm ngoài da có mủ nếu không điều trị đúng. Dựa vào triệu chứng của bệnh vảy nến người ta cũng phân vảy nến ra làm một số dạng như:

 

– Vảy nến thể mảng

– Vảy nến thể mủ

– Vảy nến thể móng

– Vảy nến da đầu

– Vảy nến toàn thân

 

♦ Cách chữa bệnh vảy nến:

Bệnh vảy nến là căn bệnh ngoài da mãn tính, cho tới nay Đông-Tây Y vẫn chưa có bất kì phương pháp trị bệnh nào. Hầu hết các phương pháp điều trị chỉ là làm thuyên giảm các triệu chứng của bệnh vảy nến mà thôi. Một số biện pháp dùng trị bệnh vảy nến như:

Thuốc chữa bệnh vảy nến: Nhóm thuốc ức chế miễn dịch (cyclosporin, methotrexate, adalimumab…) , các nhóm retinoid (acitretin, tazarotene…), các nhóm corticosteroid (Betamethasone, clobetasol….)nhưng tác dụng rất hạn chế

Phương pháp ánh sáng: Dùng công nghệ hiện đại chiếu các bước sóng phù hợp vào da giúp đẩy lui các triệu chứng của bệnh vảy nến. Phương pháp này thu được kết quả khá hơn nhưng dễ gây ra tác dụng nguy hiểmtrong đó có ung thư da.

 

5b/. Bệnh Lupus hệ thống và lupus ban đỏ hệ thông: Là bệnh có tỷ lệ cao nhất trong nhóm bệnh tạo keo (60%) biểu hiện viêm lan tỏa hay rải rác ở tổ chức liên kết, nguyên nhân do tự miễn.Bệnh gặp chủ yếu ở phụ nữ trẻ, tỷ lệ nữ/nam: 8/1.Ngày nay chứng Lupus được xem là bệnh tự miễn trên 1 thể tạng đặc biệt.

 

– Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở lứa tuổi 20 – 40.

– Người da đen có tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong cao gấp 3 lần da trắng, tỷ lệ bệnh cao theo thứ tự: da đen, Châu Á, da trắng.

 

♦ Bằng chứng về tự miễn :

 

– Trong thể dịch bệnh nhân có nhiều tự kháng thể: kháng thể kháng nhân, kháng thể kháng acid nhân (AND, ARN), kháng các huyết cầu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu).

– Lượng bổ thể giảm rõ rệt trong máu (CH50, C3, C4), phản ứng BW dương tính giả, phát hiện các phức hợp miễn dịch trong máu và tổ chức.

– Tỷ lệ Limpho B và T thay đổi trong máu.

– Có thể gây bệnh trên súc vật bằng phương pháp miễn dịch.

– Điều trị Lupus bằng các thuốc ức chế miễn dịch có kết quả.

 

5c/. Pemphigus :

 

Pemphigus là một nhóm bệnh bọng nước tự miễn dịch hiếm gặp của da và (hay) các niêm mạc. Pemphigus không lây – thậm chí khi tiếp xúc máu.

 

Thông thường hệ thống miễn dịch của cơ thể tạo ra các kháng thể tấn công những virus và vi khuẩn có hại trong nỗ lực nhằm giữ cho cơ thể khoẻ mạnh. Tuy nhiên, ở một người mắc bệnh pemphigus, hệ thống miễn dịch nhận định nhầm các tế bào ở da và/hay các niêm mạc là những vật chất lạ, và tấn công chúng. Các kháng thể tấn công các tế bào của chính cơ thể mình được gọi là những tự kháng thể. Trong pemphigus, tế bào bị tấn công tại những cầu nối desmosome. Các desmosome là cầu nối giữa những tế bào gai giữ cho da nguyên vẹn.

Khi những tự kháng thể tấn công các desmosome, các tế bào gai bị chia tách, dịch gian bào tập trung tại vị trí tổn thương hình thành bọng nước. Điều này gây nên thương tổn giống như bị bỏng hay vết rộp không lành lại. Ở một số rường hợp, những vết rộp đó có thể chiếm một vùng rộng trên cơ thể.

Có nhiều loại pemphigus, và chẩn đoán bệnh sớm là một điều quan trọng. Dù có thể có tính chất di truyền và một số nhóm người có thể có nguy cơ cao hơn về căn bệnh này, thì bệnh không có vẻ ảnh hưởng tới những người theo đặc trưng chủng tộc và phạm vi văn hoá, vì thế không thể nói rằng ai sẽ có thể mắc bệnh pemphigus. Bệnh có thể điều trị và có những hỗ trợ để người bệnh có thể sống chung với bệnh, gồm cả thông tin về dinh dưỡng và chăm sóc.

 

Bởi vì là một bệnh hiếm, pemphigus thường là điều cuối cùng người ta nghĩ tới khi chẩn đoán bệnh. Cần hỏi ý kiến một thầy thuốc da liễu nếu có bất kỳ thương tổn da hay miệng kéo dài nào. Chẩn đoán sớm có thể cho phép điều trị thành công với mức độ sử dụng thuốc thấp.

 

Có ba tiêu chí cho một chẩn đoán xác định Pemphigus:

 

Khám bệnh tại bệnh viện — khám bằng mắt về những tổn thương da.

Sinh thiết thương tổn — Lấy một mẫu da rộp và khám nghiệm bằng kính hiển vi để xác định xem tế bào có bị phân chia theo cách đặc trưng của pemphigus. Ngoài ra, lớp da có hiện tượng chia tách tế bào có thể được xác định.

Huỳnh quang miễn dịch trực tiếp (direct immunofluorescence) — Mẫu sinh thiết da được xử lý để để phát hiện các tự kháng thể kháng desmosome của da. Sự hiện diện của các tự kháng thể đó cho thấy dấu hiệu của pemphigus.

Ngoài những điều trên, một xét nghiệm chẩn đoán khác cũng có thể được sử dụng, được gọi là huỳnh quang miễn dịch gián tiếp hay xét nghiệm hiệu giá tự kháng thể. Xét nghiệm này xác định các tự kháng thể kháng desmosome trong huyết thanh máu. Nó có thể được dùng để xác định rõ hơn về mức độ bệnh. Ngoài ra, một thử nghiệm huyết thanh về các tự kháng thể desmoglein, được gọi là ELISA, cũng có thể được thực hiện. Nó là biện pháp chính xác nhất, tuy nhiên không phải tất cả các phòng thí nghiệm đều thực hiện được xét nghiệm này.

 

Các dạng pemphigus

Có nhiều dạng pemphigus. Ba dạng chính là pemphigus vulgaris, pemphigus foliaceus, và paraneoplastic pemphigus.

Pemphigus Vulgaris (PV)

Thuật ngữ “vulgar” có nghĩa “thông thường,” và PV là dạng thường được chẩn đoán nhất của pemphigus. Những chỗ đau và rộp da luôn xuất hiện đầu tiên ở miệng. Bởi vì da là một cơ quan của cơ thể nên PV được gọi là bệnh đơn cơ quan. Nó không gây ảnh hưởng gì tới các cơ quan bên trong. Những vết rộp có thể lan tới dây thanh quản, nhưng không thể xa hơn. PV không gây ra sẹo vĩnh viễn trừ khi có sự nhiễm trùng ở vị trí thương tổn. Trong kiểu bệnh này, các tự kháng thể tấn công protein “keo”, là chất giữ các tế bào da dính với nhau, được gọi là desmoglein. Các thương tổn rất đau đớn. Thỉnh thoảng có xuất hiện hiệu ứng Nikolsky, chỉ cần chạm vào da cũng đủ khiến nó rách ra. Trước kia, khi chưa được điều trị bằng thuốc, PV gây ra tỷ lệ tử vong 99%, nhưng với các liệu pháp chữa trị hiện nay, tỷ lệ tử vong giảm xuống chỉ còn 5 đến 15%

Pemphigus Foliaceus (PF)

Ở loại pemphigus foliaceus này, các vết rộp và đau không xuất hiện ở miệng. Những vảy cứng đau nhức hay những vết rộp dễ vỡ thường xuất hiện đầu tiên trên mặt và da đầu và sau đó lan xuống ngực và lưng.

Các tự kháng thể được hệ miễn dịch sản xuất ra nhưng chúng chỉ liên kết với desmoglein 1. Các vết rộp rất nông và thường gây ngứa, nhưng không gây đau đớn như PV.

Đối với PF, thương tổn gây biến dạng da có thể xảy ra, nhưng tỷ lệ tử vong của kiểu bệnh này thấp hơn so với PV.

Paraneoplastic Pemphigus (PNP)

PNP là kiểu pemphigus nguy hiểm nhất. Nó thường xảy ra với những người có tiền sử chẩn đoán mắc một bệnh ác tính (ung thư). Tuy nhiên, nó lại là tuýp bệnh ít xảy ra nhất. Nó luôn xuất hiện những thương tổn đau đớn trong miệng, môi và thực quản, và xảy ra thương tổn da theo nhiều kiểu. PNP có thể gây ảnh hưởng đến phổi. Trong một số trường hợp việc chẩn đoán bệnh có thể khiến các bác sĩ phải lưu ý tìm kiếm một khối u ẩn. Một số trường hợp khối u là lành tính và tình trạng bệnh sẽ được cải thiện nếu khối u được loại bỏ bằng phẫu thuật.

Dạng bệnh này hiếm khi xảy ra và trông nó rất khác biệt so với những hình thái pemphigus khác. Các tự kháng thể trong máu cũng khác biệt và sự khác biệt đó có thể được xác định bằng các xét nghiệm.

———-Wambuakim———-

Xin xem tiếp NGOẠI BÌ HỌC III 

PHÁT ĐIỆN DÙNG NĂNG LƯỢNG SÓNG BIỂN

Bản thuyết minh Kỹ thuật.

(Technic’s Lecture)

KỸ THUẬT PHÁT ĐIỆN SÓNG BIỂN

 

Sóng biển – nguồn năng lượng khổng lồ và vô tận

Mặt biển chiếm diện tích ~ 3/4 bề mặt địa cầu. Trung bình, nước biển có độ mặn khoảng 3,5% , nghĩa là mỗi lít nước biển chứa khoảng 35 gam muối, phần lớn là clorua natri (NaCl) hòa tan dưới dạng các ion Na+ và Cl-. Nước biển có thể được biểu diễn như là 0,6 M NaCl, có mức độ thẩm thấu cao và không thể uống được. Biển còn chứa một danh sách động – thực vật – thuỷ sinh khổng lồ nuôi dưỡng nhân loại. Biển cả luôn luôn nằm trong đáy sâu tâm khảm nhân loại, chiếm lĩnh một bộ phận lớn tư duy văn học, thơ ca thế giới.

Từ hàng nghìn năm qua, con người đã biết sử dụng nước biển để làm muối ăn, muối công nghiệp (sản xuất Sud, clohydric acid, soda Ash, ocid magne, v.v…), để phát triển ngư nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản biển, giao thông vận tải hàng hải và để …. chứa vô tội vạ các loại chất thải, nước thải sinh hoạt và công nghiệp.

A/. Khai thác năng lượng từ biển.

Nhận thức được năng lượng sóng biển có hiệu năng gấp 100 lần năng lượng mặt trời nên thời gian 25 năm gần đây có rất nhiều cố gắng khai thác năng lượng (điện) từ biển.

1/. Cổ điển nhất là điện thuỷ triều. Dựa vào địa hình đặc biệt hoặc cửa sông với các đập chắn có cổng van đóng – mở theo chu trình thuỷ triều, lúc thuỷ triều lên mở cổng van thì tích nước, thuỷ triều xuống thì xả nước biển qua các turbine thuỷ điện. Nhà mày điện thuỷ triều thường có đầu tư rất lớn nhưng phát điện không thường xuyên, dễ bị xâm thực hoá học bởi thành phần nước biển v.v… nên thường chỉ được sử dụng như một nguồn điện phụ.

2/. Máy phát điện dùng nhiệt nước biển : Lợi dụng sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tầng nước giúp ammoniac bốc hơi rồi hoá lỏng trở lại bằng qui trình Hemmolt.
Đầu tiên, người ta dùng nước biển phía trên (có nhiệt độ 28-34 độ C) để hâm nóng một hỗn hợp ammoniac, khiến nó bốc hơi và đẩy turbine quay. Sau đó, ammoniac được dẫn xuống tầng nước biển phía dưới (10-15 độ C) để làm lỏng trở lại. Tiếp theo, ammoniac lỏng lại được bơm vào thùng hỗn hợp phía trên. Cứ như vậy, người ta có một vòng tròn khép kín, chuyển nhiệt lượng của nước biển thành điện năng.
Đầu tư cho nhà máy phát điện dạng này dĩ nhiên là rất tốn kém, công suất hạn chế, tính khả thi thấp.

3/. Sử dụng chênh lệch độ mặn của nước sông với nước biển : Pin hoạt độ là một loại Pin có cấu tạo đơn giản, bao gồm hai điện cực (+) bằng magne và (-) bằng than graphite, được đặt nằm trong một chất lỏng có chứa các hạt tích điện, hoặc ion, hấp phụ bằng than hoạt tính. Chất lỏng này có thành phần là muối ăn thông thường NaCl bao gồm các ion Natri và Clo.
Ban đầu, pin được làm đầy nước ngọt và một dòng điện nhỏ được sử dụng để nạp điện (nạp điện mồi). Sau đó tháo nước ngọt và thay thế bằng nước biển. Bởi vì nước biển chứa các ion nhiều hơn từ 60 đến 100 lần so với nước ngọt, tạo ra điện áp giữa hai điện cực. Điều đó làm cho nó có thể thu điện gấp nhiều lần so với năng lượng để sạc pin.
Pin hoạt độ và dạng phát điện này có công suất vừa phải nhưng vận hành không đơn giản và giá nước ngọt không phải là rẻ. Nhà nghiên cứu Yi Cui than thở rằng yếu tố hạn chế công nghệ này là số lượng nước ngọt có sẵn. “Chúng ta thực sự có một số lượng vô hạn của nước đại dương, tiếc là chúng ta không có một số lượng vô hạn của nước ngọt”.

B/. Máy phát điện sóng biển.

I/. Các dạng máy phát điện sóng biển :

  1. Hệ thống Fraunhofer :

Trong hệ thống này, phao nổi treo trên cánh tay của thân tàu dài 50m nhấp nhô lên và xuống cùng với sự chuyển động của sóng biển. Chuyển động này sẽ tạo ra điện và được lưu trữ trong một hệ thống pin trên tàu. Trong trường hợp có bão, tất cả các phần phụ đi kèm chỉ đơn giản là ngắt kết nối, xếp gọn gàng và an toàn.

  1. Tuabin diều ngầm dưới nước :

Thay vì đặt các hệ thống khai thác năng lượng trên mặt nước, diều dưới nước (dài từ 8-14 mét) là sự kết hợp của gió và sóng. Những cánh diều này có cánh quạt quay khi thủy triều đi qua. Cũng giống như thuyền buồm có thể chuyển động nhờ những cơn gió, sự chuyển động nhào xuống của diều đã khuếch đại tốc độ nước lên đến 10 lần. Diều đã được thiết kế với sức nổi trung bình và có nắp đậy để bảo vệ các tuabin.

  1. 3. Thiết bị kiểu hàu biển (Oyster Machine)

Oyster là một bộ máy khổng lồ, có hình dạng như con hàu nằm nghỉ ngơi dưới đáy đại dương và đáy biển. Thiết bị sử dụng công nghệ thủy lực, nó chuyển năng lượng sóng vào bờ thành điện. Chiều rộng dao động khoảng 18m được lắp với piston. Nó được kích hoạt bởi sóng và máy bơm nước thông qua một đường ống dưới biển.

  1. 4. Phao nPower WEC

Tương tự như cơ chế hoạt động của diều dưới nước, hệ thống này được neo vào đáy đại dương và các phao nổi trên bề mặt. Chuyển động nhấp nhô sẽ tạo ra điện thông qua các tuabin. Các phao sẽ được lắp đặt thành các cụm và theo thứ tự.

  1. 5. Thiết bị hỗn hợp tế bào mặt trời nổi trên biển

Đây là máy phát điện hỗn hợp sử dụng năng lượng mặt trời và năng lượng sóng. Các phao được gắn hệ thống quang điện thu nạp năng lượng mặt trời và thu nạp năng lượng của sóng.

II/. Mô hình phát điện sóng biển Wambuakim :

Mô hình của Wambuakim từ năm 1986 tại xã Hàm Tiến, Thị Xã Phan Thiết (nay là TP. Phan Thiết) đã sử dụng những phương tiện giản đơn có sẵn tại địa phương, tồn tại và phát huy tác dụng trong 5 năm. Cơ cấu của máy phát điện khá đơn giản như hình sau :

a/. Chi tiết :
1/. Sóng biển : với xung lực lớn, sức xâm thực mạnh, sóng biển đe doạ và thực sự gặm nhấm bờ biển khu vực này, thường xuyên cắt đứt con đường ven biển và phá hoại các công trình, nhà ở dân dụng sát bờ.
2/. Vùng nước biển “lặng” đi do năng lượng của sóng biến đã chuyển thành điện năng.
3/. Phao nửa nổi 200 lít làm bằng thùng phuy sắt cũ, sơn chống gỉ, chống hà. Phao sẽ dập dềnh trên mặt sóng, lấy đi một phần năng lượng của sóng thông qua lực đẩy Archimeda trên thể tích phao, chiếm ~ 35% năng lượng của sóng biển. Một máy phát 7,5 KW cần chừng 6 phao như vậy. Năng lượng thu được từ phao gọi là E(A)
Dạng trụ tròn của phao cũng là điều kiện hướng sóng lên “tấm vây” (5).
4/. Tay đòn bằng gỗ tròn D = 100mm, dài 12m, cố định góc chuyển động trực phương của phao, cũng là tay biên truyền lực Archimeda.
5/. “Tấm vây” bằng gỗ dán (ván ép) phủ composite. Khi sóng vượt lên vành tròn của phao, năng lượng sóng biển tác động làm “tấm vây” ngả về sau, rồi theo xu hướng đường hồi mà dựng tự dựng trở lại chờ con sóng tiếp theo. Năng lượng thu được trên “tấm vây” chiếm khoảng 42% đến 65% năng lượng của sóng. Năng lượng thu được từ tấm vây gọi là E(B).
6/. Tay đòn collector thu năng lượng E(B) từ “tấm vây”. Tay đòn làm bẳng gỗ vuông 40 x 40 mm, dài 12,5m.
7/. Các điểm “khớp” động, ổ quay theo phương pháp Rolexian.
8/. Bệ định vị trực phương.
9/. Khu bảo vệ + bờ kè chắn sóng.
10/. Bệ thu năng E(A) của máy.
11/. Các thanh collector thu năng E(B) của máy.
12/. Nền đất bờ biền.

b/. Vận hành :
– Sóng biển làm phao chuyển động lên – xuống kiểu “dập dềnh”. Năng lượng này có mối quan hệ tương ứng với chiều cao sóng và thể tích phao.
– Cánh tay (4) chuyển động quay một góc quanh trục (7)/8. Động năng này chuyển lên trục (7)/10 bằng dây xích (sên) có cơ chế một chiều, tạo ra moment quay hữu ích E(A).
– Sóng biển vượt lên “phao”, đập vào làm xô đầy tấm vây (5) làm tấm vây này quay một góc quanh khớp động, truyền năng lượng qua tay đòn (6), thông qua thanh collector (11) đưa năng lượng E(B) vào (7)/11 chuyển thành moment quay. Moment E(A) và E(B) tổng hợp lực bằng một bộ đồng tốc để kéo Alternator phát điện.
E = E(A) + E(B)
– Khi mức nước biển thay đổi theo thuỷ triều thì khối nặng màu tím ở (10) làm thay đổi khoảng cách tay đòn và ổ quay (7)/10, duy trì ổn định cơ học của hệ.

c/. Bàn thêm :
1/. Máy phát điện năng lượng sóng biển chế tạo kiểu Kim- Techno và vận hành đơn giản, sử dụng được năng lực cơ khí + xây dựng hạn chế tại địa phương. Máy phát điện năng lượng sóng biển có thể xây dựng bất cứ nơi đâu : biển vắng không người, hải đảo.
2/. Năng lượng sóng biển cung cấp hào phóng, không mất tiền, suất đầu tư máy phát bé, giá thành điện thấp (~0,05 USD / KWh) có mãi lực và tính cạnh tranh rất cao.
3/. Không chỉ phát điện, nhà máy điện sóng biển còn là phương thức triệt tiêu tác dụng xâm thực, bảo vệ an toàn công trình cận bờ biển.
4/. Với công suất 27KW / 1m chiều dài bờ biển, thì ~3500 Km bờ biền VN chỉ cần sử dụng 5% đến 10% ở các vùng bở biển, hải đảo … năng lực kinh tế + du lịch không cao đã thoả mãn hơn 4 lần nhu cầu điện năng quốc gia của nền Kinh Tế Quốc Dân Việt Nam giai đoạn 2020 – 2050.

——-Wambuakim——–

Viết năm 1992 

 

 

SOLAR – STIRLING and MORE

Stirling Mặt trời – và hơn nữa

(bản đồ án rút gọn)

 

A/. Năng lượng mặt trời :

 

Trong phổ năng lượng tái tạo bao gồm năng lượng gió – năng lượng địa nhiệt – năng lượng mặt trời – năng lương sóng biển – năng lượng “phông nên vi ba vũ trụ” – năng lượng từ trường trái đất v.v… thì năng lượng mặt trời là một mảng rất đáng quan tâm. Điều đơn giản là năng lượng mặt trời phân bố đều khắp, đưa đến địa cầu tương đương 1,184 KW / mét vuông mặt đất bằng một tổng phổ quang học từ tử ngoại – ánh sáng nhìn thấy được – đến hồng ngoại.

 

B/. Các phương pháp SX điện từ năng lượng mặt trời chủ yếu hiện nay :

 

1/. Pin quang điện (Solar cell / solar panel).

 

Vào đầu những năm 1960, người ta đã chế tạo được pin quang điện mặt trời đầu tiên với tiếp giáp p-n trên cơ sở chất arsenua gali. Thời đó, các pin quang điện này có hiệu suất thấp hơn so với các pin quang điện silic nhưng lại có khả năng hoạt động ở nhiệt độ cao hơn, đến 150 độ C.

Đây la phương pháp thu năng lượng mặt trời đơn giản nhất, do đó cũng phổ biến nhất. Nhược điểm chính của pin quang điện là :

– Hiệu suất thấp do chỉ sử dụng được một phần của phổ ánh sang nhìn thấy được, chiếm khỏang 40% tổng năng lượng. Do đó mà hiệu suất của các pin quang điện hiện nay chỉ đạt từ 7,5% đến 18%.

– Các phần tử bán dẫn tạo nên Pin quang điện không chịu nổi năng lượng quang và nhiệt tập trung (giới hạn 120 độ C + 24.000 lux / mét vuông) nên không thể nâng hiệu suất biến năng lên cao hơn 200 W / mét vuông bằng các biện pháp hội tụ. Ngoài ra Pin quang điện còn bị phong hóa, hư hỏng rất nhanh khi đến gần ngưỡng giới hạn này.

Mẫu nhà máy Pin quang điện “kinh điển”

 

– Trời âm u, trong khi các tia vùng tử ngoại và hồng ngoại vẫn đâm xuyên mạnh xuống mặt đất thì các tia nhìn thấy được suy giảm tệ hại, có thể chỉ còn 10%, hiệu ứng phát điện bị đình trệ một cách phi l‎‎ý.

– Ban đêm không có ánh sang mặt trời nhìn thấy được dù các tia hồng ngoại vẫn rất mạnh làm cho pin quang điện không có khả năng phát điện ban đêm. Đây cũng là nhược điểm vật l‎ý rất căn bản gây trở ngại cho việc khai thác lợi ích từ năng lượng mặt trời bằng Pin quang điện.

– Nhà máy điện dùng Pin quang điện gắn liền với một hệ thống ắc quy tích điện khổng lồ nếu muốn phát điện 24/7. Bản thân pin quang điện thì không gây ô nhiễm nhưng thứ “đi kèm” này là siêu độc hại, một nguồn ô nhiễm khủng khiếp không dễ xử l‎ý, đắt tiền và hay hỏng.

– Mọi cố gắng mở rộng phổ quang học cho Pin mặt trời (để nâng hiệu suất Pin quang điện) được nghiên cứu gần 25 năm nay chưa đem lại một kết quả thực tiễn nào.

2/. Hội tụ quang năng cho máy phát nhiệt điện – turbine khí.

 

– Phương án khá hay, nó tận dụng được tòan phổ quang học mặt trời, có thể phát điện cả một phần công suất vào ban đêm nhờ vào nền bức xạ hồng ngoại. Tuy nhiên chúng cũng vướng phải các nhược điểm không thể tránh khỏi :

– Hiệu suất của động cơ Turbine khí (Gas turbine engine) là không cao (dưới 23% công suất động lực học) nên lãng phí rất lớn phần năng lượng chủ đạo. Nói chung, phương pháp hội tụ quang năng cho máy phát nhiệt điện – turbine khí không hơn gì pin mặt trời.

Nhà máy Hội tụ quang năng – Turbine khí ở Tây Ban Nha

 

C/. Động cơ Stirling (Stirling Engine)

 

– Động cơ Stirling là loại động cơ nhiệt đốt ngoài sử dụng piston. Nó đã được sáng chế và phát triển bởi Reverend Dr Robert Stirling năm 1816.

 

– Đây là loại động cơ nhiệt có hiệu suất cao, có thể đạt tới 50% đến 80% hiệu suất lý tưởng của chu trình nhiệt động lực học thuận nghịch (như chu trình Carnot) trong việc chuyển hóa nhiệt năng thành công năng, chỉ bị mất mát do ma sát và giới hạn của vật liệu. Động cơ này cũng hoạt động được trên nhiều nguồn nhiệt, từ năng lượng Mặt Trời, phản ứng hóa học đến phản ứng hạt nhân.

  • Động cơ Stirling có thể có giá thành cao hơn 45% so với các loại động cơ đốt trong cùng công suất, nhưng nó có những đặc tính thích nghi cho nhiều ứng dụng. Nó có hiệu suất cao hơn hẳn, không ồn, hoạt động ổn định và bền bỉ, không cần bảo dưỡng nhiều, và có thể hoạt động với chênh lệch nhiệt độ giữa nguồn nóng và nguồn lạnh trong dải rộng từ cỡ chục độ C đến hàng nghìn độ C.

– Với giá thành năng lượng đang tăng những năm đầu thế kỷ 21, cùng với lo lắng về sự nóng lên của Trái Đất, các động cơ Stirling đang dần được quan tâm để đưa vào các nhà máy phát điện với năng lượng tái tạo và lĩnh vực hàng không vũ trụ (đề án NASA).

– Động cơ Stirling là thiết bị ưu việt và đặc biệt là cấu tạo đơn giản. Một đầu động cơ được đốt nóng, đầu còn lại làm nguội và công hữu ích được sinh ra. Đây là một động cơ kín không có đường cấp nhiên liệu cũng như đường thải khí. Do đó nó không có tiếng nổ, không thải khí và còn là động cơ tuyệt đối sạch.

– Chừng đó thôi cũng đủ thấy rằng kết hợp hội tụ quang năng + Stirling phát điện là một phương án phi thường, có hiệu suất từ 50% đến 80% so với con số khiêm tốn 18% của Pin quang điện và 23% của Hội tụ – Turbine khí.

Mẫu Stirling – Mặt trời đơn lập

 

Động cơ Stirling – Mẫu chọn

 

– Mẫu động cơ Stirling được chọn là Stirling Alpha, có hai Cylinder (+2 piston) đặt lệch 90 độ là hai phần nóng và phần lạnh của động cơ. Hai tay bien (tay biên / tay dên) đặt chung trên một hệ quay lệch tâm (biên / dên). Đầu nóng tiếp xúc trực tiếp với bộ trao đổi nhiệt; phần lạnh được làm mát bằng đối lưu tự nhiên hay bằng nước.

– Nhiệt năng cung cấp vào phần Cylinder nóng, nguội đến dưới 50 độ C rồi thải ra môi trường (không gây ô nhiễm nhiệt năng). Cylinder nóng nhận nhiệt năng này, kích khởi cho Stirling họat động. Moment quay ở trục bien kéo Alternator ở tốc độ danh định 3000 RPM, phát ra điện xoay chiều 50Hz / 220V, cung cấp trực tiếp cho nhu cầu dân dụng.

– Ổn định tốc độ quay (ở tôc độ 3000 RPM để bảo đảm tần số dòng điện 50 Hz) và ổn áp (220V) sẽ được một bộ phận điện tử theo dõi, điều tiết và hiển thị.

 

D/. Bản vẽ thiết kế mẫu Stirling Engine 3,5 KW

(gồm 12 bản vẽ / 21 hình)

Design 1

Design 2a

Design 2b

Design 3a

Design 3b

Design 4a

Design 4b

Design 5a

Design 5b

Design 6a

Design 6b

Design 7a

Design 7b

Design 8

Design 9a

Design 9b

Design 10a

Design 10b

Design 11

Design 12a

Design 12b

 

E/. Giá thành chế tạo (đơn chiếc) :

F/. Nói thêm

 

– Rõ ràng là hiệu suất thần kỳ của động cơ Stirling cho phép có một sự kết hợp rất phong phú từ các nguồn nhiệt khác mà không chỉ năng lượng mặt trời. Một trong những thứ đó là nhiệt dư của lò đốt rác, nhiệt dư nhà bếp và mũi khoan địa nhiệt.

 

– Một bộ giãn nhiệt – trao đổi nhiệt không phức tạp cho phép chuyển nhiệt lượng của lò đốt rác vào Cylinder nóng của của động cơ Stirling làm nó họat động ở tốc độ ổn định 3000 RPMs, kéo Alternator một đôi cực và phát ra điện xoay chiều 220V / 50 Hz.

 

– Một cách khiêm tốn, Stirling được cho là chuyển khỏang 65% đương lượng nhiệt (tính bằng Kcal) ra điện. Nghĩa là để phát ra công suất 1 KW, Stirling chỉ cần 3,680 Kcal (dưới 40 Kg rác đô thị đốt bằng công nghệ Plasma). Đây là một hiệu suất “khủng”, có thể kích thích việc sử dụng các Stirling phát điện sử dụng ngay nhiệt dư nấu nướng nhà bếp để chuyển thành điện. Điều này sẽ gây một làn sóng cách mạng trong cán cân năng lượng của đất nước, góp phần tước bỏ đặc quyền đặc lợi của ngành điện về tay nhân dân trong thời gian không xa.

March, 28, 2015

——–Wambuakim——–

KỸ THUẬT ĐỘNG CƠ Ô-TÔ XE MÁY KHÔNG NHIÊN LIỆU VÀ CÁCH MẠNG MÔI TRƯỜNG

         I/. Động cơ và sự sống nhân loại :

“Động cơ là công cụ cơ khí, là chế tác đặc biệt của nhân loại, nhằm mục đích biến đổi các dạng năng lượng khác thành năng lượng hữu ích và hữu hướng để phục vụ cho một mục tiêu cơ học nhất định.”

Từ thượng cổ, con người đã biết dùng thuỷ động năng của dòng nước chảy để tạo ra các bờ xe nước nổi tiếng kỳ quan để dẫn thuỷ nhập điền, làm máy giã gạo .v.v… Tiếp theo là hoá năng của hợp chất nitrat, kali sulfur… để làm ra tên lửa dưới dạng pháo thăng thiên, động cơ phản lực 1 thì kỳ diệu. Tên lửa hơi nước chế tạo sau đó không lâu làm tăng ý nghĩa và nhận thức về sự phong phú của năng lượng cho động cơ. Cối xay gió làm sáng danh đảo quốc Hà Lan, tô điểm cho câu chuyện hài “Don Quijotte, nhà quý tộc tài ba xứ Mantra” (Cervantes, Espanã) cũng góp phần tạo nên động cơ turbin khí, tiền thân của các động cơ turbine hiện đại.

 

II/. Động cơ nhiên liệu : bước đột phá :

Sự khám phá ra động cơ hơi nước dùng nhiên liệu than và than đá bởi Denis Papin ở Pháp và Stephenson đưa lên đầu kéo xe lửa tại Anh liền sau đó, đã mở đầu cho cách mạng công nghiệp toàn cầu. Sau đó nhân loại tiến lên chế tạo động cơ đốt trong dùng nhiên liệu lỏng Diesel và động cơ chạy xăng, và các biến tấu nhiên liệu như dầu mazout, hỗn hống than lỏng … và động cơ turbin nhiên liệu lỏng ( dùng dầu phản lực, hỗn hợp ammoniac – oxy lỏng, hỗn hợp hidro – oxy lỏng … ) đã tiếp tục đẩy mạnh chế tác động cơ nhiên liệu.

Có thể nói, động cơ nhiên liệu là bước đột phá lớn của nhân loại, là vị thần Atlas dựng nên thế giới văn minh cơ khí ngày nay.

1/. Ưu điểm của động cơ nhiên liệu :

Động cơ nhiên liệu có các ưu điểm chủ yếu sau đây :

a/. Dễ chế tạo, nguyên lý giản đơn, tường minh, phù hợp với nhiều trình độ cơ học.

b/. Nhiên liệu tương đối phổ biến và vận chuyển khá dễ dàng.

c/. Đầu tư sản xuất tương đối thấp, và ngày càng thấp hơn.

2/. Nhược điểm của động cơ nhiên liệu :

Động cơ nhiên liệu có các nhược điểm chủ yếu sau đây :

a/. Hiệu suất nhiên liệu không cao, lãng phí và tiêu huỷ năng lượng hoá thạch mà thiên nhiên đã tích luỹ hàng nhiều vạn năm.

b/. Chất thải COx, NOx …  từ động cơ dùng nhiên liệu lỏng, dù nhiều hay ít, đều rất độc hại đến môi trường sống, tăng hiệu ứng nhà kính và hầu như không có khả năng kiểm soát.

 

II/. Động cơ không nhiên liệu cho ô-tô và xe máy:

         1/. Nguyên tắc cơ học :

 

  • Động cơ ô-tô xe máy không nhiên liệu dùng năng lượng dãn hơi của khí nén làm cơ chế động lực.
  • Một turbin khí áp thấp dùng năng lượng này tạo thành chuyển động quay, làm cơ năng hữu ích của động cơ ô-tô xe máy không nhiên liệu.

 

2/. Chế tác chính :

a/. Hộp trữ khí áp : Là cơ sở động lực chính, có dung tích 8 lít, chịu được áp lực trên 6 Atm. Đó là một hộp thép dày 1mm, có dạng vận trù, phù hợp với mợi loại hình xe, kiểu dáng trang nhã.

b/. Bộ phối khí áp : Một van điều chỉnh bằng cửa dạng Space (S), ăn liền với bộ phận chỉnh ga xăng. Khi điều chỉnh tay “ga” thì cũng là điều chỉnh đồng loạt van phối khí này.

c/. Động cơ tubine : Gồm 2 phần, gắn liền thành một cơ phận thống nhất :

– Turbine khí:

* Một Stator bằng ống thép một đầu kín, một đầu hở và một lỗ thoát hơi. Lòng ống được gốm hoá với độ bóng rất cao, nên có độ ma sát rất bé.

** Bên trong lòng Stator có turbine 8 cánh bằng vật liệu Nhựa – Ceramic chịu nhiệt độ rất lớn (trên 500 độ C), bền cơ và chịu mài mòn cao. Đầu kín cũng là điểm tựa của cốt turbine, đầu hở là nắp tháo lắp được, có lỗ nhận hơi nén. Khi nhận được hơi có áp, turbine quay để giãn hơi, biến thế năng khí áp thành động năng làm turbine quay. Hơi giãn áp thoát ra theo lỗ thoát hơi trên thân Stator ra ống giảm thanh (Pô air).

– Bộ đồng tốc: Cơ năng giải phóng từ turbine có hiện tượng “giật cục”. Vì mỗi khi cánh turbine vượt qua vị trí miệng ống thoát thì mới mở đường cho hơi giải nén thoát ra với tốc độ của một phản ứng nổ. Do đó mà cơ năng được giải phóng đột ngột gây ra hiện tượng xung cơ học. Bộ đồng tốc có nhiệm vụ tích trữ cơ năng và giải phóng từ từ, xoá bỏ hiện tượng “giật cục” này.

         d/. Bộ hoà cơ : Gồm nhông truyền và bao nhông.

Nhằm gắn lắp phù hợp với mọi kiếu xe, chúng tôi thiết kế đầu ra theo cách truyền động lực vào thẳng bánh xe qua một nhông truyền phụ gắn trực tiếp vào vành chân căm (còn gọi là tambour). Do đó mà mọi kiểu xe máy từ xe số đến xe ga đều gắn ráp cùng một kiểu như nhau, tính phổ dụng (lắp lẫn) rất cao.

 

3/. Ưu nhược điểm của động cơ không nhiên liệu :

*** Động cơ không nhiên liệu có các ưu điểm chủ yếu sau đây :

a/. Hiệu quả môi trường không thể chối cãi.

b/. Lắp ráp dễ dàng và phù hợp với mọi loại xe máy. Chỉ một “nhông”, một bộ gá đơn giản, một động cơ không nhiên liệu, một bộ chia khí áp, một bình chứa khí, và 11 bu – loong, đai ốc. Tất cả những thứ đó tạo cho chiếc xe máy một tính năng kỳ diệu.

c/. Giải quyết bài toán năng lượng một cách triệt để. Qua mẫu thử nghiệm, chỉ với 1.000 ĐVN bơm hơi nén, đã chạy được trung bình 40 Km – 50 Km. Không thể bàn gì hơn.

d/. Không lo khâu phân phối nhiên liệu như động cơ chuyển đổi dùng khí hoá lỏng gặp phải. Ở Việt Nam hiện thời, không ở đâu là không có bơm hơi – vá ép. Đó là những điểm cung cấp năng lượng còn phổ biến hơn cả xăng dầu.

         e/. Không sợ nguy hiểm, cháy nổ như LPG. Dùng khí hoá lỏng luôn luôn phải đối diện với nguy cơ kích nổ khi lưu thông với tốc độ cao, một va chạm có thể phát nổ, dẫn đến chết người. Trong khi đó, động cơ không nhiên liệu tuyệt đối an toàn cháy nổ.

f/. Có thể chế tạo với mọi mức công suất, từ 1 kW đến 16 kW không có gì khó khăn trong chế tạo và đều hoàn toàn khả thi.

g/. Hoàn toàn có khả năng phát triển cho ô – tô. Đây là bước tất yếu mà chúng ta phải nghĩ đến

***Nhược điểm của động cơ không nhiên liệu:

a/. Có khó khăn khi lắp cho xe “ga” bánh nhỏ. Cần có tập huấn kỹ cho thợ lắp ráp.

b/. Bình đựng khí áp không thể quá lớn, ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ và độ an toàn vận hành nên chỉ chạy 40 – 50 Km là phải tiếp khí áp. Điều này có thể giải quyết bằng bình khí phụ đặt ở một nơi khác trên xe máy. Ô – tô thì không thành vấn đề.

 

III/. Qui trình công nghệ sản xuất động cơ không nhiên liệu:

 

Tóm lược, qui trình công nghệ sản xuất động cơ không nhiên liệu đi theo 06 bước chính:

1/. Chế tạo động cơ : Là bước tốn nhiều thì giờ và nhân lực, cần phải quan tâm. Chủ yếu bước này có 03 phân đoạn sau :

a/. Chế tạo Stator : Cắt ống, chọt lỗ đường thoát, xoáy, ghép bệ vòng bi, gốm hoá.

b/. Đúc turbine bằng máy đúc áp lực khuôn nóng với nhựa – composit.

c/. Lắp bộ đồng tốc và gắn vào động cơ.

2/. Chế tạo bộ chia khí : theo hình thức van xoay.

3/. Chế tạo bộ gá : theo mẫu cho sẵn, vận trù cho mọi loại xe.

4/. Chế tạo bình chứa hơi nén : hình thức như bình đựng phụ tùng của xe Bonus. Một chỗ có van nạp khí, bên kia là ống hơi đi tới bộ chia khí.

5/. Nhông và xích : nhông 27 / 18, xích KDK202 thông thường, 0,8 m.

6/. Bu – loong và đai ốc : dùng của LIDOVIS.

Quy trình này có ưu điểm rất lớn :

2/. Đơn giản, tường minh, phù hợp với mọi trình độ công nghiệp từ thủ công đến tự động.

3/. Không có sức căng quá lớn về mặt bằng do có thể đặt gia công nhiều chi tiết.

 

         IV/. Đầu tư máy móc : (tổng đầu tư dự kiến : 500.000 EURO)

 

Không kể đến phương tiện vận chuyển và nhà xưởng, thì những khoản mục đầu tư máy móc cho 3000 động cơ ô-tô xe máy không nhiên liệu / tháng là :

 

Chủng loại Số lượng Đơn giá

(triệu VNĐ)

Thành tiền

(triệu VNĐ)

1/. Máy tiện (lớn nhỏ) 6 200 1200
2/. Máy phay – chọt lỗ 4 300 1200
3/. Máy xoáy – đánh bóng 6 120 720
4/. Máy gốm hoá 1 300 300
5/. Máy đúc nhựa áp lực 4 120 480
6/. Máy nung – tôi 2 180 360
7/. Máy dập 5 250 1250
8/. Máy cắt gọt đa năng 2 250 500
9/. Khuôn nhựa và khuôn dập 11 95 1045
10/. Máy sơn tĩnh điện & sấy 1 450 450
11/. Máy mạ Ni – Cr –  Zn (kẽm) 1 360 360
12/. Máy sấy điện – hồng ngoại 1 220 220
Tổng cộng 8080

 

V/. Thế mạnh kinh tế – kỹ thuật của động cơ không nhiên liệu:

Công nghệ động cơ không nhiên liệu có những thế mạnh sau đây:

1/. Kích thích, thúc đẩy và vực dậy nền công nghiệp chế tạo máy VN đang thoái trào trước sự xâm nhập mạnh mẽ của hàng cơ khí các nước trong khu vực.

2/. Công nghệ động cơ không nhiên liệu là công nghệ rất mới lạ và có tiềm năng cao. Nhất là các xe chạy trong nhà xưởng, trong khu dân cư, trong thành phố… Có thể phát triển thành xe Buýt, xe taxi không nhiên liệu, là một thế mạnh rất lớn.

3/. Nguyên vật liệu chế tạo động cơ không nhiên liệu là hoàn toàn nội địa, điều chế, thu mua được trong nước và không có bất cứ sức căng xã hội – công nghiệp nào.

4/. Động cơ không nhiên liệu không đòi hỏi đầu tư phương tiện cung cấp năng lượng cho ô – tô xe máy dùng nó, nên có thể triển khai bất cứ thời điểm nào mà không sợ trở ngại xã hội trong lĩnh vực cấp năng.

5/. Động cơ không nhiên liệu dễ dàng phối hợp với động cơ nhiên liệu sẵn có của ô–tô, xe máy nên có thể tạo dòng ô–tô – xe máy lưỡng dung (vừa có nhiên liệu, vừa không nhiên liệu). Điều này làm giảm bớt sức căng tiền vốn vì không phải SX đồng bộ một loại hình ô-tô – xe máy riêng, phù hợp với trình độ và qui mô SX của VN ta hiện nay.

6/. Động cơ không nhiên liệu cứu vãn môi trường các đô thị lớn, có độ tập trung dân số cao và ô-tô xe máy đi lại với khối lượng lớn.

7/. Động cơ không nhiên liệu, qua các thuận lợi kinh tế – kỹ thuật nói trên, sẽ hiệu quả hơn so với bất cứ công nghệ chế tạo động cơ mang tính môi trường nào khác trên thế giới, đáp ứng được một mảng nhu cầu rất lớn của VN, hấp dẫn hơn bất cứ hướng đầu tư công nghệ xây dựng nào. Mãi lực và khả năng cạnh tranh của nó là không thể lường trước được.

 

         VI/. Thay lời kết luận :

 

Nhân loại đang đứng trước nguy cơ mất cân bằng sinh thái, hiểm hoạ môi trường và sức căng phát triển. Việc xuất hiện công nghệ động cơ không nhiên liệu góp phần trong cuộc đấu tranh một mất một còn để bảo vệ an toàn sinh thái, giữ gìn môi trường sống và cải thiện kinh tế, giữ gìn bầu sinh quyển và tầng ô – zôn.

Không dừng lại ở đó, với tính năng ưu việt và giá thành hợp lý, chắc chắn động cơ không nhiên liệu có chỗ đứng rất cao trong ngành chế tạo động cơ ô-tô xe máy nội thị trong khu vực và thế giới. Nó đem lại việc làm, lợi nhuận công nghiệp và khả năng xuất khẩu.

Ngày 31/3/2001.

Wambuakim

  • Ghi chú : 11 bản vẽ kỹ thuật và 3 bản hướng dẫn nguyên nhiên liệu và công nghệ hỗ trợ đã thông qua, trở thành tài sản hợp pháp của liên minh CTy và sẽ chỉ kèm theo Know How Công Nghệ.
  • Pháp lý : Việc đăng ký Patent hợp pháp đã được đưa đến Cục Sở Hữu Trí Tuệ VN, và 03 văn phòng Patent ngoại quốc từ ngày 01/07/2004.
  • Thực hiện :

        “  Việc thử nghiệm đã được liên minh DOMICO – EURASIA tiến hành từ 01/6/2001 đến 01/11/2004, theo đúng mọi điều kiện và tiêu chuẩn động học Châu Âu.”

Ngày 14/11/2004

Đại Diện EURASIA DEVELOPMENT GmbH

FalkstraBe 73-77 D 47058 Duisburg.

Nguyễn Quý Dr.                                                                                       (ký tên)

RƯỢU HỒNG ĐÀO PHẦN I : CÔNG NGHỆ NẤU RƯỢU HỒNG ĐÀO TRUYỀN THỐNG

(Trích cuộc nói chuyện với cô em gái)

 

Thanh Hà : Anh ơi, dạy em nấu thứ rượu gì làm kinh tế đi. dạy nấu rượu gì đó dân gian thôi, không quá quí giá như Lưu Ly Mỹ Tửu của anh là được rồi.

Wambuakim : à, anh muốn dạy em và mọi người làm rượu Hồng Đào.
Rượu Hồng Đào ngon ngang ngửa rượu Bồ Đào. Em nhớ bài thơ nổi tiếng này không ?

Bồ Đào mỹ tửu Dạ quang bôi
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Lý Bạch)

Thanh Hà : Tên rượu gì nghe quen quen, hình như trong ca dao có nè phải không anh ?
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Hồng Đào chưa nhấm đà say
(ca dao xứ Quảng)

Wambuakim
uh, rượu Lưu Ly là thứ quá sang trọng vì vậy ngày xưa chỉ dành cho vua chúa
còn rượu Bồ Đào thì dành cho chiến tướng nơi sa trường
rượu Hồng Đào thì lại dành cho tình duyên, hò hẹn, cưới hỏi gần giống với Lưu Ly

Thanh Hà : Nhưng rượu Hồng Đào nấu bằng cái gì hả anh ?

Wambuakim : Ừ, thì cũng nên biết thế nào là rượu Hồng Đào nhỉ.
Nhiều người cho rằng rượu Hồng Đào chỉ là sản phẩm “vật chất hóa một đặc sản tinh thần”. Nhà thơ Lê Minh Quốc cũng cho rằng rượu Hồng Đào không có thật. “Hồng Đào” chỉ là một cách nói văn vẻ, văn hoa – vốn là một cách nói hiếm khi thấy người Quảng sử dụng trong giao tế.. Và cho rằng: “Với người Quảng Nam, rượu nào cũng có thể biến thành rượu Hồng Đào, miễn là nó được gói trong tờ giấy kiếng màu hồng, được thắt nơ hồng và được đưa vào mâm lễ ở các đám hỏi, đám cưới…”
Tuy nhiên theo nhà báo Nguyễn Trung Dân thì: “rượu Hồng Đào khắp cả Quảng Nam nơi nào cũng có và thường chỉ làm ra dùng vào việc lễ, dịp cưới hỏi nghinh hôn, lấy làm rượu hợp cẩn giao bôi. Cách chế tác như sau: lấy rượu đế (trắng) thường nấu bằng gạo sau khi lên men, dùng cây tăm hương (chân hương đã đốt còn trong bát nhang) hay lấy cái vỏ bao hương nhúng vào rượu trắng, nhuộm màu hồng của chân hương hay vỏ bao hương cho rượu, nên rượu Hồng Đào” để khác với rượu thường ngày thường. (theo Wikipedia)

Thanh Hà : Trời đất. Không lẽ lấy rượu vớ vẩn nào đó rồi pha màu đo đỏ, bọc giấy hồng điều đi đám cưới đám hỏi là thành rượu Hồng Đào sao anh ? Anh không định dạy em làm thứ đồ dỏm đó chớ ?

Wambuakim : Không phải đâu em, rượu Hồng Đào là có thật, và nó là quí tửu Việt Nam chớ không phải đồ dỏm của ông Trung Dân đâu.

Thanh Hà : Nhưng anh ở trong Nam mà sao biết nấu rượu Hồng Đào hay vậy ?

Wambuakim :
Số là năm 2004, anh lại đi du phương nghiên cứu
Hồi đó chưa có khu Du lịch Bà Nà mà chỉ có núi non hoang sơ, anh khởi hành từ Bà Nà, lần mò Trường Sơn đến cổ kinh Trà Kiệu của ngưới Chăm Pa
Xong rồi lại cắt rừng đi về phía biển, băng qua Tam Kỳ – Quảng Nam đến khu Kỳ Trung (bây giờ là Tam Thắng, TP Tam Kỳ – Quảng Nam).
Một đêm tối mịt mù cuối tháng 5 năm 2004, anh lần mò đến một ngôi nhà “bánh ú” cổ kính nằm giữa một rừng điều. Bát ngát một biển điều


Thanh Hà : Vậy là ở đó có ai bỏ quên chai rượu Hồng Đào, anh … uống đại chớ gì ?

Wambuakim : Nói xấu cho kẻ ác không à, để từ từ anh khai báo chớ em.
Ở đó, một cụ ông quê gốc làng Bảo An, Điện Ban, nơi phát tích loại rượu Hồng Đào nổi tiếng. Ông ấy tiếp đãi anh, cho anh uống một thứ rượu màu đỏ hồng, thơm ngan ngát, uống đến đâu muốn say liền đến đó

Thanh Hà
Hấp dẫn quá đi

Wambuakim :
Hỏi ra mới biết là rượu Hồng Đào. Cái tên Hồng Đào buông ra như một tiếng sét.
máu nghề nghiệp trỗi lên, anh hỏi nguyên liệu để nấu rượu Hồng Đào, thì ông ấy chỉ ngay ra rừng điều trước mặt : “nấu bằng trái đó đó”
anh hỏi : “nấu bằng trái điều hả ?” (gật đầu) Anh thắc mắc : “Vậy sao không gọi là rượu hồng điều hay đơn giản là rượu điều mà gọi là … Hồng Đào ?”
ông ấy nói : “Người Quảng Nam chúng tôi gọi trái đó là trái ĐÀO LỘN HỘT, hoặc vắn tắt là trái ĐÀO, không gọi trái điều như trong Nam”

Thanh Hà
À…thì ra vậy

Wambuakim
hahaha
thế là anh đã hiểu
. . . . . . . . . . . . .
nhưng anh lại thắc mắc là nhiều nhà nghiên cứu cho rằng không có rượu hồng đào (như Lê Minh Quốc). Nói khác đi, ông Quốc cho là rượu gói trong giấy đỏ (giấy hồng đơn) để đi đám cưới thì thành rượu hồng đào thôi, chứ rượu hồng đào không có thật.
ông cụ (năm đó đã 82 tuổi) cho biết là rượu Hồng đào bây giờ hầu như ko còn ai biết cách nấu, mọi thứ rượu cứ pha phẩm màu đo đỏ là kêu bằng rượu hồng đào
“Tòan đồ dỏm hết”. Ông cụ nói chắc nịch

Thanh Hà
Ôi phí quá đi mất

Wambuakim
Không phí đâu em, thế là anh ở đó hơn một tuần học cho được cách nấu rượu Hồng Đào


Thanh Hà
Ôi…nghe câu chuyện hay quá. Làm sao nấu hả anh ?

Wambuakim
Em chú ý khâu chuẩn bị nè :
1/. 8 đến 10 Kg trái điều (đào lộn hột, đẹp và mẩy) rửa sạch, xắt lát dày 1 Cm, để ra nia, phủ khăn hong cho ráo nước và tự lên men sơ bộ trong 24 giờ
2/. Nấu một nồi cơm bằng gạo tẻ (nấu không được khô quá)
3/. Chuẩn bị 2 Kg đường mật mía
4/. Men rượu là loại men “lá” (tức men thuốc bắc, ra tiệm thuốc bắc hỏi thuốc ủ men rượu là có)
men rượu nghiền ra, pha trong nước ấm 50 độ C đến 60 độ C cho tan, lọc lấy nước rồi chan đều vào nồi cơm đã để nguội.

Thanh Hà : Vậy cũng đơn giản hả anh ? rồi làm sao nữa ?

Wambuakim :
Bây giờ ủ men trong cái khạp vách đứng 15 lít nè
1/. trộn đường mía vào nồi cơm đã nguội.
2/. trải một lớp cơm chừng nửa Cm rồi trải một lớp trái điều lên trên
3/. Đến khi khạp đầy thì them nước ấm 40 độ cho ngập mặt nguyên liệu rồi phủ khăn sạch lên mặt khạp, đậy kín
4/. Sau 6 ngày lên men thì mang ra lọc bỏ xác, nước lọc lại bằng than củi hay vải sạch (bây giờ thì nên lọc bằng than họat tính) để loại bỏ các aldehyd và methanol gây độc, nhức đầu.
5/. Nước bấy giờ là rượu hồng đào “thô”, có màu đỏ hồng. Cho rượu vào chai, đậy nút kín, ủ 1 đến 2 ngày.
6/. Đem luộc các chai ở 70 độ C trong 1 giờ để không lên men chua.
Hòan tất sẽ được khỏang 8 đến 10 lít rượu Hồng Đào
Rượu này uống có vị ngọt nhẹ, hơi chan chát như rượu nho, mùi vị rất kỳ diệu

Thanh Hà
Em ko biết đường “mật mía”.

Wambuakim
Là đường nấu bằng mía đó, một phần lớn đã kết tinh thành đường vàng, đáy còn chảy nước như mật ong

khắp nơi đều có, rẻ lắm em. ra chợ có khi em thấy cả khối đường mía, gọi là “muỗng đường”. Ở đường Hàm Tử Q5, TP HCM có đó em.

Thanh Hà
Dùng đường cát tinh đc ko anh

Wambuakim
Sau này anh có dùng thử đường cát tinh thì thấy hương vị rượu gắt chứ không được nhẹ nhàng như dung đường mật mía

Thanh Hà
cách làm ko khó anh nhỉ

Wambuakim : Dĩ nhiên là không khó, chỉ là biết hay không thôi mà.

Thanh Hà
Em chưa hiểu luộc các chai để ko lên men chua là sao. Là luộc trước khi cho rượu vào hay sau khi ủ vậy anh ?

Wambuakim
Luộc để dùng nhiệt độ cao, tiêu diệt con men chết hết chớ sao ? Nếu không giết hết con men thì nó tiếp tục phân hóa làm rượu bị chua.

Thanh Hà : Ai chà, hay quá hả anh ?

Wambuakim
Như vậy đó, tóm lại rượu Hồng Đào là có thật và là quy tửu, Hồng Đào ngon tuyệt trần chứ không phải là cái thứ đồ dỏm như ông Minh Quốc và Trung Dân nói.
Dĩ nhiên là các thứ rượu Hồng Đào bán lăng nhăng khắp nơi đều là đồ dỏm

Thanh Hà
Rượu ủ xong bao nhiêu độ anh ?


Wambuakim
Rượu hồng đào đúng mức thì khỏang 30 độ, nhưng hương vị rất đặc trưng, hậu hơi chan chat như rượu Bồ Đào. Anh chỉ thấy nó thua mỗi Lưu Ly mỹ tửu mà thôi

Thanh Hà

Em ko biết uống rượu nên ko so sánh đc…nhưng em muốn có 1 loại rượu ngon và bổ, nhẹ độ cho phụ nữ

Wambuakim
men thì sau này anh dùng men bia ủ thử cũng có được rượu ngon, nhưng chỉ nhẹ độ thôi.
Nếu muốn ngon, bổ và nhẹ độ thì em dùng men bia mà ủ là vừa y.
Rượu Hồng Đào làm cho phụ nữ thêm yêu đời, cải thiên các chức năng tình cảm, tình dục và sinh sản
nếu ủ bằng men bia thì em uống được đó
nhẹ lắm, ngọt, thơm và có cái hậu chan chát rất đặc trưng
năm 2012 anh nấu thử mấy chục lít, bán cả triệu đồng / lít đó

Thanh Hà
Vậy hả
Anh có quá trời thứ để làm giàu.

Wambuakim : Không đâu em, anh nghiên cứu để khôi phục lại các tinh hoa của dân tộc và cung cấp không điều kiện cho nhân dân, một phần để họ làm giàu, một phần để góp phần bảo tồn văn hóa Việt, không chỉ trong ẩm thực.

Thanh Hà
Tốt cho sức khỏe ko uống đc nhiều thì uống ít thôi anh nhỉ

Wambuakim
ở khu vực Ninh Thuận – Bình Thuận thì người ta còn dùng cách ép lấy dịch trái điều rồi ủ
rượu cũng có hương vị rất đặc trưng nhưng đậm lắm, uống không ngon. Người ta dùng làm thuốc uống chữa kiết lỵ, dạ dày v.v…
Sau này anh lập ra qui trình công nghệ ở cấp độ tiểu thủ công nghiệp nhằm phục vụ sản xuất rượu Hồng Đào qui mô vừa và lớn, có thể sản xuất quanh năm mà không sợ “đứt” nguồn nguyên liệu khi hết mùa trái điều.

Thanh Hà : Hả, hả ? Sao bây giờ anh mới nói ? nói cho em ghi đi.

Wambuakim : Thì từ từ rồi …. khoai cũng nhừ mà. Bây giờ anh phải làm việc rồi. Hẹn em và các bạn trong bài tiếp theo vậy.

Thanh Hà : Anh quỉ quái lắm đó nhen ….

Wambuakim. 05/6/2015.
Còn tiếp : “Sản Xuất rượu Hồng Đào qui mô tiểu thủ công nghiệp”

NGOẠI BÌ HỌC PHẦN I (DA HỌC I) – SKIN DISEASES THEORY

NGOẠI BÌ HỌC I (DA HỌC I) 

SKIN DISEASES THEORY

    A/. Đại cương về ngoại bì.

Ngoại bì còn gọi là da, thuộc một tạng của cơ thể (bì tạng), liên hệ mật thiết hữu cơ với hệ bài tiết, có nhiệm vụ bao bọc cơ thể, che chở cơ thể khỏi sự tác động, sự ảnh hưởng không có lợi của môi trường bên ngoài đối với cơ thể. Ngoài ra, chức năng chính của da còn để điều hòa, cảm nhận nhiệt độ, tổng hợp vitamin B và D. Da được coi là một trong những bộ phận quan trọng nhất của cơ thể. Diện tích bề mặt da người là khoảng 2 mét vuông.

Theo kiến thức Y học cổ điển từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XX, thì da người gồm ba lớp: lớp biểu bì, lớp bì và lớp mỡ dưới da. Nhưng theo bì học hiện đại thì da gồm 5 lớp, trong đó lần lượt là:

 

1- Lớp biểu bì : hình thái là một tầng sừng gồm có các tế bào đã chết, xếp sít nhau, rất dễ bong ra.

 

2- Lớp tế bào sống :gồm các tế bào có khả năng phân chia tạo thành tế bào mới, chứa các hạt sắc tố tạo nên màu da, một số tế bào sống phân hóa thành tế bào sinh lông và tế bào sinh móng.

 

3- Lớp collagen : là màng bán thấm cấu tạo bằng collagen, kết nối lớp tế bào sống với lớp bì ở phia dưới.Đó là một loại protein được tìm thấy nhiều nhất ở động vật có vú, đặc biệt trong các mô thịt, là thành phần chính của mô liên kết, chiếm khoảng 25% đến 35% protein cơ thể. Collagen dạng sợi dài, chủ yếu được tìm thấy trong các mô xơ như dây chằng, gân và da, và cũng có nhiều trong giác mạc, sụn, xương, mạch máu, ruột, và đĩa đệm.

* Nguyên bào sợi là tế bào phổ biến nhất tạo ra collagen. Collagen chiếm 1-2% của các mô cơ, và chiếm 6% trọng lượng của cơ bắp, cơ gân.

* Gelatin, được sử dụng trong thực phẩm và công nghiệp, là collagen đã được thủy phân một phần.

 

4- Lớp bì : được cấu tạo từ các sợi mô liên kết bền chặt, gồm các thụ quan,tuyến nhờn, tuyến mồ hôi, lông và bao lông, cơ co chân lông, mạch máu, dây thần kinh.

 

* Tuyến nhờn : Nhiệm vụ của tuyến nhờn là tiết chất nhờn, tạo thành một lớp chất nhờn bao phủ bề mặt da, giúp da mềm mịn, không bị thầm nước và hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn từ môi trường bên ngoài.

 

* Tuyến mồ hôi : tồn tại dạng chùm dưới da (nhiều nhất ở bàn tay, bàn chân, nách, háng, trán)có từ 2đến 3 triệu tuyến. Nhiệm vụ là tiết mồ hôi (là các chất thải bã được lọc từ máu ra), giúp điều hòa thân nhiệt cơ thể, làm nhiệt độ cơ thể giảm xuống nhiệt độ bình thường khi quá nóng. Muối lysozym có tính kháng khuẩn cao. Có hai loại tuyến mồ hôi là tuyến mồ hôi toàn vẹn và tuyến mồ hôi bán hủy.

 

* Lông và các phụ quan liên quan :

Lông gồm có:chân lông, bao lông, cơ co chân lông, cơ co chân lông có nhiệm vụ co lại mỗi khi trời lạnh, làm cho lông dựng đứng lên, che khít lỗ chân lông, không cho hơi ấm trong cơ thể bay ra không khí, như thế sẽ giữ ấm được cơ thể.

 

5- Lớp mỡ dưới da :

 

* Mô mỡ : Bảo vệ da khỏi những tác động cơ học, cách nhiệt, dự trữ năng lượng.

 

* Dây thần kinh : Giúp da nhận biết những kích thích từ môi trường.

 

* Mạch máu : Giúp da trao đổi chất với cơ thể bên ngoài.

       B/. Bệnh học về da – bệnh lý da.

 

I/. Nguyên nhân gây bệnh ngoại bì :

Các bệnh về da (da liễu) xảy ra rất phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Nguyên nhân là do:

– Tình trạng ô nhiễm môi trường toàn diện hiện nay –> hệ miễn dịch hoạt động kém, tê liệt hoặc hoạt động nhầm lẫn (tự miễn).

– Cơ thể bị nhiễm độc hoặc suy giảm hệ thích nghi –> dị ứng với đủ loại dị nguyên.

– Làm sạch ko đúng cách, sử dụng thức ăn nước uống quá dư thừa dầu mỡ.

– Môi trường sống ẩm thấp, hẹp, bụi bặm, hoặc chung đụng vật dụng kém vệ sinh.

– Nguồn nước sinh hoạt không đạt tiêu chuẩn.

– Bên cạnh đấy có một lượng ko nhỏ bệnh nhân bị viêm da do dùng mỹ phẩm hóa học độc hại, khi bị bệnh thì điều trị kiểu “ai xui gì làm nấy”, cũng có nguyên nhân dùng thuốc không theo chỉ định, dẫn đến những biến chứng vô lường.

II/. Phân loại bệnh ngoại bì :

Triệu chứng chung của bệnh ngoài da là đau, ngứa gãi ngoài da. Dựa theo nguyên nhân, chúng được phân theo 8 nhóm loại dưới đây :

 

1/. Nhóm bệnh ngoại bì do xâm nhiễm

 

1a/. Ghẻ ngứa: Là bệnh nhiễm ký sinh trùng da Sarcopte Scabiei,lây truyền trong gia đình, tập thể. Triệu chứng gồm: nổi mụn nước ở các kẽ tay, cổ tay, vùng bụng, bộ phận sinh dục, ngứa nhiều về ban đêm. Trong gia đình người bệnh thường có vài người mang biểu hiện tương tự.

 

1b/. Chốc lở: là bệnh nhiễm trùng nông ở da do vi khuẩn gây ra, chủ yếu xảy ra ở trẻ em. Biểu hiện của bệnh là những nốt mụn đỏ, sau đó vỡ ra, rỉ nước trong một vài ngày và đóng vảy, thường xuất hiện ở vùng mặt, nhất là quanh mũi và miệng. Bệnh rất dễ lây lan và thường lây trực tiếp từ vùng da bệnh đến vùng da lành trên cùng một trẻ, hoặc từ trẻ này sang trẻ khác, vì vậy bệnh còn được gọi là “chốc lây”. Chốc lở có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng 90% là các bé tuổi nhà trẻ, mẫu giáo. Trên thực tế phụ huynh rất hay nhầm lẫn giữa bệnh chốc lở và bệnh thủy đậu. Nếu được chẩn đoán sớm và xử trí đúng, bệnh chốc lở cải thiện nhanh, khỏi và không để lại sẹo; trường hợp ngược lại bệnh có thể dẫn đến biến chứng nghiêm trọng.

Chốc lở được phân loại theo hình thái thương tổn: chốc có bọng nước và chốc không có bọng nước.

  1. Chốc có bọng nước

– Nguyên nhân: thường do tụ cầu gây ra.

– Thương tổn cơ bản:

  • Khởi đầu là dát đỏ kích thước từ 0,5-1cm, nhanh chóng tạo thành bọng nước trên đó.
  • Bọng nước nhăn nheo, xung quanh có quầng đỏ, sau vài giờ thành bọng mủ đục từ thấp lên cao.
  • Vài giờ hoặc vài ngày sau các bọng nước dập vỡ, đóng vảy tiết màu vàng nâu hoặc màu nâu nhạt giống màu mật ong.
  • Thương tổn khỏi không để lại sẹo.

– Vị trí thường gặp: ở mặt, vùng da hở, hoặc bất kì chỗ nào kể cả lòng bàn tay, bàn chân, không bao giờ xuất hiện ở niêm mạc. Tại vùng da đầu, vảy tiết có thể làm tóc bết lại.

– Biểu hiện toàn thân: viêm hạch lân cận, sốt rất hiếm gặp trừ khi chốc lan tỏa hoặc có biến chứng.

– Bệnh nhân có thể ngứa – gãi làm thương tổn lan rộng chàm hóa, lan sang vùng da khác.

  1. Chốc không có bọng nuớc

– Nguyên nhân: thường do liên cầu tan huyết nhóm A.

– Thương tổn ban đầu: mụn nước, mụn mủ nhưng dập trợt rất nhanh trên nền da đỏ, tiết dịch ẩm ướt nên không có bọng nước điển hình. Bờ thương tổn thường có ít vảy da trông giống như bệnh nấm da. Vảy tiết phía trên có màu vàng mật ong hoặc nâu sáng, với một quầng đỏ nhỏ bao quanh. Một số trường hợp có thể thấy các thương tổn vệ tinh ở xung quanh.

– Vị trí: hay gặp ở mặt, xung quanh hốc mũi, miệng hoặc tứ chi.

– Hình thái này thường gặp trên những trẻ bị viêm da cơ địa, ghẻ, hoặc một bệnh da nào đó kèm theo bội nhiễm, hầu như không gặp thương tổn ở niêm mạc.

– Bệnh thường khỏi sau 2-3 tuần, nhưng cũng có thể kéo dài, nhất là khi cơ thể có nhiễm ký sinh trùng, bị chàm hay thời tiết nóng, ẩm ướt.

 

1c/. Đốm đồi mồi và rám tàn nhang :

Điểm tàn nhang xuất hiện chủ yếu trên mặt nhưng cũng có thể ở nhiều nơi khác trên cơ thể, do tiếp xúc nhiều với ánh sáng cực tím (UV) từ ánh nắng mặt trời và (/hoặc) nhiễm độc từ thực phẩm, nước uống và khí thở. Việc sử dụng các loại đèn thuộc da (nhuộm da nâu) cũng có thể góp phần vào sự phát triển của các đốm đồi mồi. Đồi mồi và tàn nhang có thể xuất hiện ở bất cứ điềm nào trên cơ thể, ở mọi lứa tuổi và giới tính.

 

1d/. Viêm da tiết bã, gầu.

Viêm da tiết bã là một rối loạn da phổ biến chủ yếu ảnh hưởng tới da đầu, gây ra vảy, ngứa, da đỏ và gàu.

Đối với trẻ sơ sinh, viêm da tiết bã của da đầu được Y học ghi nhận như cradlecap. Ở thanh niên và người lớn, viêm da tiết bã gây ra gầu khô và gầu ướt, kết hợp nhiễm nấm gây ngứa, rựng tóc hàng loạt, tạo ra hiện tượng hói đầu.

2/. Nhóm bệnh ngoại bì do virus :

 

2a/. Mụn cóc (mụn cơm): Đây không phải là bệnh ung thư mà là do siêu vi trùng papillomavirus gây nên. Mọi người đều có thể bị mụn cơm trẻ em thường bị nhiều hơn người lớn. Mụn cơm có thể lan truyền từ phần này sang phần khác trong cơ thể hoặc lây từ người này hay người kia, tuy ít nguy hại nhưng dây dưa và khó trị dứt.

 

2b/. Thủy đậu : do một loại siêu vi mang tên varicella zoster virus gây ra. Bệnh này rất dễ lây truyền qua đường hô hấp và qua tiếp xúc dịch tiết. Khoảng 10 – 14 ngày sau khi xâm nhập vào cơ thể, người bệnh bắt đầu biểu hiện triệu chứng nhiễm thủy đậu. Trẻ nhỏ thường sốt nhẹ, biếng ăn còn người lớn bị sốt cao, đau đầu, đau cơ, nôn ói. Sau đó cơ thể sẽ bắt đầu nổi mụn nước ở vùng đầu mặt, chi và thân. Mụn nước có đường kính vài milimet. Nếu bị nặng, mụn nước sẽ to hơn hay khi nhiễm thêm vi trùng mụn nước sẽ có màu đục do chứa mủ. Sau 1-2 ngày mới xuất hiện nốt đậu. Nốt đậu nổi nhiều là dấu hiệu cảnh báo bệnh có thể diễn tiến nặng. Sau khi nốt đậu mọc thì thường người bệnh giảm sốt và tổn thương bóng nước khô dần rồi tự bong vẩy vài ngày sau đó nhưng để lại sẹo mờ trên da sau vài tuần mới hết hẳn. Thông thường bệnh diễn biến kéo dài khoảng 2 tuần.

Là bệnh siêu vi nên thủy đậu có thể phát sinh những biến chứng nguy hiểm nếu điều trị và dưỡng bệnh không đúng cách.

2c/. Bệnh zona: Bệnh có tên khoa học là Herpes zoster, bệnh do virút cùng loại vi-rút thuỷ đậu gây nên. Vi-rút này có tên là Varicella zoster. Bệnh zona có thể lây truyền từ người bị nhiễm sang trẻ em hay người lớn mà những người này trước đây không mắc bệnh thuỷ đậu. Zona là một loại bệnh cấp của hệ thần kinh trung ương, do virus nhiễm vào hạch của các rễ sau gây đau dây thần kinh rồi phát ban, nổi nốt phỏng nước cấp tính, có đặc điểm là nhsững thủy bào tụ thành hỡnh đai mọc theo đường dây thần kinh một bên người, kèm theo triệu chứng đau như lửa châm và các hạch bạch huyết ngoại vi sưng to, giống Herpes trên vùng da thuộc về dây thần kinh đó. Có biểu hiện viêm ở hạch đàng sau và đôi khi trong sừng sau của tủy. Nốt phỏng là do huyết thanh tiết dưới lớp sừng.

Dùng một số loại thuốc bôi mỡ kháng sinh, mỡ corticoid, mỡ kháng nấm. Dùng kết hợp với một số thảo dược như lá trầu không, sài đất, … Tuân thủ dùng thuốc đều dặn bệnh sẽ sớm khỏi.

2d/. Bệnh zona thần kinhlà bệnh gây ra bởi chủng virus cùng loại với virus gây bệnh thủy đậu. Sau khi khỏi bệnh thủy đậu thì virus thủy đậu không hề chết hoàn toàn mà một số trú ngụ tại các dây thần kinh trong trạng thái ngủ. Chờ điều kiện thuận lợi các virus này sẽ hoạt động trở lại gây viêm dây thần kinh biểu hiện ra bệnh zona thần kinh.

Triệu chứng của bệnh ngoài da này là các mụn nước nhỏ bằng hạt đậu xanh, sau đó các mụn nước này lan rộng và kiên kết thành từng mảng dải theo hướng đi của dây thần kinh, sau cùng gây loét và gây tổn thương trên da. Bệnh thường xuất hiện trên mặt, mí mắt, cổ, lưng,…

 

2e/. Bệnh lang ben là một bệnh ngoài da khá phổ biến, do virut Pityrosporum orbiculaire gây nên thường có biểu hiện xuất hiện một đốm hay một mảng có màu trắng thường không ngứa hay ngứa ít, nhưng khi ra nắng, đổ mồ hôi thì ngứa nhiều. Bệnh lang ben tùy thuộc khá nhiều vào việc vệ sinh da, sức đề kháng của cơ thể, phụ thuộc vào độ PH của da và cả độ ẩm của da. Cho nên có thể giải thích một số trường hợp trong một gia đình có người mắc bệnh lang ben nhưng người khác lại không mắc.

 

3/. Nhóm bệnh ngoại bì do nấm :

 

3a/. Nấm da : thủ phạm chính là do nhiều loại vi nấm từ môi trường, tiếp xúc lây nhiễm gây tác hại lên da. Vi nấm sinh sôi và phát triển trên da gây tổn thương thượng bì gây viêm. Nhận biết bệnh viêm nấm da dựa vào các dấu hiệu như ngứa da bứt dứt khó chịu, viêm loét, đỏ sưng. Bệnh thường xuất hiện vào thời điểm thời tiết, môi trường ẩm ướt, các vị trí trên cơ thể nơi ẩm ướt, nhiều mồ hôi.

Tổn thương do nấm da gây ra chủ yếu là nấm ở da đầu, nấm ngoài da, nấm đường sinh dục… Khi xác định được các loại vi nấm gây viêm thì sẽ dùng các thuốc để bôi hoặc uống để điều trị trị bệnh nấm da theo chỉ định của bác sĩ. Điều trị nấm da cần chú ý kiên trì điều trị dùng hết đợt liệu trị nhằm phòng ngừa nấm da tái phát trở lại.

 

3b/. Nấm da đùi (tinea cruris): là một bệnh nấm hay gặp xảy ra ở da vùng mặt trong đùi, mông và vùng sinh dục. Bệnh do nấm dermatophytes gây ra. Bệnh lây do dùng chung khăn, quần áo hoặc qua quan hệ tình dục với người nhiễm bệnh.

 

3c/. Nấm da đầu: Bệnh có tên gọi khác là bệnh Ecpet mảng tròn, là bệnh nhiễm nấm dưới chân tóc và dưới da. Nếu quan sát kỹ sẽ thấy nó biểu hiện bằng từng mảng tròn trắng, gây ngứa ngáy khó chịu. Bệnh này có khả năng lây qua đồ dùng nếu dùng chung như mũ, nón, lược.

 

3d/. Nấm kẽ chân: do các loài nấm Epidermophyton, Trichophyton gây nên. Tổn thương ban đầu bợt trắng hơi bong vảy, nổi một số mụn nước, ngứa nhiều, gãi trợt da, có nền đỏ, có khi viêm nề, sưng tấy do nhiễm khuẩn thứ phát, khi đó bệnh nhân có thể sốt, hạch bẹn sưng. Nấm có thể lan lên mu bàn chân, xuống mặt dưới bàn chân, đôi khi có mụn nước sâu dạng tổ dỉa ở lòng bàn chân .

 

3e/. Hắc lào: là một trong những bệnh nấm da có khả năng lây từ người này sang người khác trên diện rộng do sử dụng chung các đồ dùng sinh hoạt như quần, áo, khăn mặt, khăn tắm, ngủ chung giường, đắp chung chăn… Bệnh hắc lào do vi nấm gây ra gây ngứa ngáy, nổi mẩn đỏ trên da với các tổn thương có hình tròn như đồng tiền. Bệnh chủ yếu là do vệ sinh cơ thể không sạch sẽ, người ra nhiều mồ hôi nhưng ít được vệ sinh hoặc do tiếp xúc với môi trường ô nhiễm, nước bẩn.

 

3f/.Ngứa phát ban do virus Herpes : nhiễm virus nhóm herpes B có thể tạo ra mề đay dị ứng diện rộng và lây lan rất nhanh, chủ yếu ở trẻ em.

———-Wambuakim———- (còn tiếp)

Xin xem tiếp NGOẠI BÌ HỌC II 

HỎI ĐÁP Y HỌC LƯỢNG TỬ CUỐI TUẦN 31 : BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT

Hỏi : (Hoa Mặt Trời)

Em chào thầy.

Em được người quen giới thiệu thầy.

Thầy có thể tư vấn giúp em bệnh sốt xuất huyết.

Em của e đang ở bệnh viện sốt xuất huyết làm tăng men gan và rối loạn tiêu hóa. Đã xuất ban dưới da nhưng vẫn còn sốt và mệt vật vả, không ăn uống gì được.

Cảm ơn thầy, nếu không phải thì cho em xin lỗi vì đã làm phiền.

Trả lời : (Wambuakim)

Sốt xuất huyết là bệnh do virus Dengue lây truyền do muỗi vằn mang đi chích vào người gây ra. Tuy khá nguy hiểm nhưng bệnh sốt xuất huyết khá dễ phòng dễ chữa. Bệnh sốt xuất huyết dạng nhẹ sẽ gây sốt cao, phát ban, đau cơ và khớp. Bệnh sốt xuất huyết dạng nặng có thể gây chảy máu nặng, giảm huyết áp đột ngột (sốc) và tử vong.

Tác động bệnh học của sốt xuất huyết là :

(i)Tiểu cầu giảm +

(ii)Suy giảm chức năng gan +

(iii)Giảm tổng hợp các yếu tố đông máu.

Do đó thành mạch bị tổn thương và tăng tính thấm gây xuất huyết dưới da.

Nhiễm virus Dengue có xuất huyết và có sốc là do tái nhiễm virus Dengue khác type và do đáp ứng miễn dịch bệnh lý của cơ thể (HalStead SB).

Vì vậy, tình trạng “sốt và mệt, tăng men gan và rối loạn tiêu hóa” hiện nay của em ấy là do suy giảm chức năng gan (và có thể có viêm gan) do độc lực mạnh của một chủng Serotype Dengue gây nên.

Việc sốt thì kéo dài là do virus Dengue sinh sản trong bạch cầu đơn nhân, dẫn đến :

+ Giải phóng các chất trung gian vận mạch (Anaphylatoxin, Histamin, Kinin, Serotonin…)

+ Kích hoạt bổ thể

+ Giải phóng Thromboplastin tổ chức

+ Thành mạch tăng tính thấm, dịch từ trong lòng mạch thoát ra ngoài gian bào, hậu quả là giảm khối lượng máu lưu hành, thậm chí dẫn đến sốc nhiệt có thể gây tử vong đột ngột.

———————

Bệnh sốt xuất huyết là một vấn đề khá cũ, đã được Wambuakim viết từ năm 2012 với nội dung gồm 5 nhóm vấn đề :

(1)Bệnh lý sốt xuất huyết,

(2)Nguyên nhân gây bệnh sốt xuất huyết,

(3)Biến chứng và bệnh cảnh tăng nặng của bệnh sốt xuất huyết,

(4)Phòng chống và chữa trị bệnh sốt xuất huyết,

(5)Bài thuốc đặc hiệu diệt virus Dengue (gây bệnh sốt xuất huyết) và virus Zika (gây bệnh em bé đầu to).

Với nội dung khá hạn chế trong câu hỏi của Hoa Mặt Trời, Wambuakim chỉ tóm tắt thành một : Dược pháp chữa bệnh Sốt Xuất Huyết của Y Dược Học Lượng Tử. trình bày dưới đây.

Y Dược Học Lượng Tử có dược trình riêng, trị dứt điểm Virus Dengue chỉ trong 7 ngày từ khi phát hiện bệnh. Dược pháp :

– Bảo vệ thành mạch + Zika (viên) + Kích ứng (da). Mỗi thứ 100g, uống ngày 5 lần / lần 30 đến 35 viên trong 7 ngày.

– Hỗ trợ đề kháng biến chứng : Zika dạng sirop 4 chai / ngày 1/2 chai pha thành 1 lít nước nóng, chia uống trong ngày.

====Bài thuốc Sirop Zika (dạng lỏng) dưới đây đã được thực hiện và phát miễn phí cho đồng bào Hà Nội năm 2017, kịp thời giải cứu hàng trăm ca bệnh Sốt Xuất Huyết, và được người dân đánh giá là Thần Kỳ====

Bài thuốc sirop Zika cơ sở

Nguyên liệu :

1/. Cỏ mực 20g.

2/. cam thảo 10g,

3/. Đinh lăng 10g,

4/. Chùm bao 10g,

5/. Tần dày lá 15g,

6/. Rau ngổ 15g,

7/. Mật ong 10g,

8/. Đường 10g.

Cách làm :

– 1 dến 6 xay nhuyễn với chút nước, vắt lấy nước.

– 7 và 8 trộn vào.

– Hỗn hợp ũ 70 độ C trong 2 đến 3 giờ bằng năng lượng mặt trời (ở nhà thì đun cách thủy nhỏ lửa trong 40 phút)

– Lắng – lọc bỏ cặn để thu Sirop Zika. Vào chai bằng kỹ thuật vô trùng.

————————–

Antivirus Version :

– Bài thuốc trên gia thêm xạ đen 15g, dấp cá 15g và gừng tươi 3 lát (12g), chế biến như trên, là bài thuốc trị sốt xuất huyết (và các bệnh nhiễm Virus khác).

– Ho nhiều thì cho thêm tắc 1 trái, lá bạc hà 12g và tỏi 1 củ nhỏ (15g).

——–Wambuakim———

HỎI ĐÁP Y HỌC LƯỢNG TỬ CUỐI TUẦN 25 : PHẢN BIỆN VI LƯỢNG ĐỒNG CĂN

Hỏi : Châu Vân (Quy Nhơn)

Tôi kết bạn với thầy vì thấy thầy có nói đến vi lượng đồng căn

Tôi tên là Châu Vân, ở Quy Nhơn.

Rất vui được giao lưu, học hỏi với Thầy ạ

Trả lời : Wambuakim

OK Vân, Thầy chưa từng từ chối sự học hỏi của người trẻ bao giờ

Châu Vân

Cảm ơn thầy

————————-

MỞ RỘNG VẤN ĐỀ VI LƯỢNG ĐỒNG CĂN

Wambuakim

Vi lượng đồng căn được sử dụng để điều trị các bệnh mãn tính, chẳng hạn như viêm da dị ứng, viêm khớp dạng thấp và hội chứng ruột kích thích. Nó cũng có thể dùng điều trị các chấn thương nhỏ như vết cắt, vết trầy xước và căng cơ hoặc bong gân. Tuy nhiên, liệu pháp vi lượng đồng căn không dùng để điều trị các bệnh nghiêm trọng như ung thư, bệnh tim, nhiễm trùng nặng hoặc cấp cứu.

Thực chất là Vi Lượng Đồng Căn biểu thị cho sự bế tắc về Y Học đối với những bệnh mãn và thường được gọi là bệnh “vô căn”.

Châu Vân

Dạ

Thầy nghiên cứu nhiều về nó ạ

Thật ra em cũng đang sử dụng aroma therapy, để hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho gia đình và nhóm cộng đồng

Cũng rất thích

Wambuakim

Với Y Dược Học Lượng Tử thì không có bất cứ mảng nào của bệnh học là không thể chữa trị. Cho nên Vi Lượng Đồng Căn chỉ là thứ phải nghiên cứu để biết rõ sự bế tắc và dốt nát của nhân loại nằm ở đâu, để qua đó mà cứu nhân dân trước bọn Lang Băm Xã Hội.

Châu Vận

Tại sao thầy lại quan tâm đến điều đó

Tại sao nó lại quan trọng

Wambuakim

Không chỉ Thầy quan tâm, mà đó là sự quan tâm chung của Y Dược Học Lượng Tử

Vì bọn “lang băm Xã Hội” đang lừa mị nhân dân để kiếm tiền một cách vô nhân đạo, mà Vi Lượng Đồng Căn là thứ chỉ có tác dụng mơ hồ và không có Thống kê Y Học rõ rệt.

Châu Vân

Sao thầy nghĩ vậy

Mỗi thời kỳ lịch sử y học có những vai trò riêng

Ngay cả ở Mỹ nơi bắt nguồn của vi lượng đồng căn, cũng coi vi lượng đồng căn là 1 nhánh của y học tổng thể

Wambuakim

vấn đề của Y Học là phải có thống kê Webster

ai “coi” thì mặc kệ họ. Khoa học là phải có xác minh Thuần lý. Y Học Mỹ “có là cái gì” so với Y Dược Học Lượng Tử đâu nào ?

Châu Vân

Dạ

Chưa hiểu ” xác minh thuần lý” là gì ạ

Wambuakim

Vi Lượng Đồng Căn bế tắc về cơ sở Y Học và không có cơ bản nào về phương pháp luận Y Học.

Châu Vân

Vậy khi dùng vi lượng đồng căn thì mình dùng cái gì để trị bệnh ạ

Wambuakim

Hic, không biết bất cứ cái cơ sở Khoa Học / Y Học nào về Vi Lượng Đồng Căn (mà bản thân nó cũng chẳng có) mà đã sử dụng nó, thì quả thật là giết người không gươm giáo, là sự lừa mình dối người trắng trợn.

Vậy thì tìm hiểu nó (Vi Lượng Đồng Căn) một chút vậy.

Vi lượng đồng căn hay vi lượng đồng căn liệu pháp (tiếng Anh: Homeopathy, ghép từ tiếng Hy Lạp: ὅμοιος hómoios, ‘tương tự’ và πάθος páthos, ‘sự đau đớn) là một giải pháp “không có phương pháp luận y học” thay thế để điều trị bệnh nhân bị mắc một bệnh nào đó bằng cách sử dụng những chế phẩm được pha loãng mà những chế phẩm này cũng gây ra các triệu chứng cho một người bình thường giống như là triệu chứng của chính căn bệnh cần chữa gây ra. Những bằng chứng khoa học gần đây nhất cho thấy vi lượng đồng căn chỉ là một giả dược nhằm làm yên lòng bệnh nhân chứ nó không có tác dụng chữa trị.

——————-

Trong vi lượng đồng căn liệu pháp, thuật ngữ phương thuốc (tiếng Anh: remedy) được hiểu là một chất đã được pha chế với một quy trình cụ thể và dự định cho bệnh nhân sử dụng, chứ nó không có nghĩa là “một loại thuốc hay một liệu pháp chữa bệnh” (theo Wikipedia)

Nguyên tắc cơ bản của vi lượng đồng căn là “quy luật của những mối tương đồng” (law of similars) nghĩa là “hãy để cho những thứ giống nhau chữa cho nhau” (“let like be cured by like”). Phát biểu mơ hồ này do bác sĩ người Đức Samuel Hahnemann đưa ra lần đầu tiên vào năm 1796, đó chỉ là một lời khẳng định không được chứng minh, và không phải là một quy luật thực sự của tự nhiên dựa trên cơ sở của phương pháp khoa học.

Những đánh giá có hệ thống từ các thử nghiệm đã được công bố không chứng minh được hiệu quả của vi lượng đồng căn. Hơn nữa, những thử nghiệm chất lượng cao hơn có xu hướng cho ra các kết quả ít tích cực, và hầu hết các nghiên cứu tích cực đã không được thực hiện lại và sự bế tác về phương pháp luận đã làm ngăn cản việc cân nhắc những bằng chứng hiệu quả rõ ràng của liệu pháp vi lượng đồng căn.

Châu Vân

Vậy thì ai tin thì theo thôi đúng ko thầy

Wambuakim

Nói “ai tin thì theo thôi” cần phải nhận thấy, đó là tin vào cái “không có cơ sở và phương pháp luận Y Học”, rồi theo cái “không có cơ sở và phương pháp luận Y Học” đó chứ gì ?

vậy thì đồng nghĩa với ĐI CHẾT Đi

Câu nói “ai tin thì theo thôi” mang vấn đề nội tại là TIN VÀO CÁI GÌ

và từ đó có câu hỏi qui nạp để mở rộng nhận thức : THEO CÁI GÌ.

Nói tóm lại, Vi Lượng Đồng Căn chỉ là một trò lừa minh dối người không hơn không kém. FDA đã cấm tuyệt đối liệu pháp vi lượng đồng căn.

-tham khảo Wikipedia : Vi Lượng Đồng Căn-

https://motthegioi.vn/suc-khoe-c-84/chau-au-bac-bo-lieu-phap-vi-luong-dong-can-72275.html?fbclid=IwAR0CpfL7RrcijXIYA3NqwHRue6MUz2YMnieFQ5Ts_YlyKZIDwCEVT-qsNaw

———-Wambuakim———